Chào ông Ngọc,
Tôi được may mắn đọc được trang Web về Khí Công Y Đạo cuả ông. Tôi rất cảm phục về sự hiểu biết rất nhiều cuả ông về Y lý, huyệt đạo và rất ngưỡng mộ về những việc cứu người thoát khỏi nhiều bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên có vài điều tôi không rõ xin ông vui lòng giải thích thêm để tôi đuợc biết rõ thêm. Trong mục Vuốt huyệt truyền khí ông có nói như sau:
Hình thức nhân điện truyền vào huyệt bệnh nhân cũng thấy kết qủa hơn châm bằng kim, nhưng thầy nhân điện bị bệnh nhân thu hết điện theo nguyên tắc bì́nh thông nhau, nhân điện không phải nội lực, nên thầy có sức khỏe rồi cũng yếu dần, thầy càng chữa nhiều người thầy càng mất sức nhiều, nếu chữa nhiều người thì́ khí lực của bệnh nhân và thầy thuốc san bằng nhau, hai người đều bệnh, các bệnh nhân được chữa sau cùng không khỏe mà cọ̀n bị bệnh của thầy thuốc truyền sang.
Tôi xin được hỏi là:
1-Nhân điện không phải là nội lực, thế thì Khí lực người Thầy Nhân điện ở đâu mà có để trị bệnh.
2-Mà mất sức thì làm sao Thầy Nhân Điện phục hồi lại sức khoẻ
3-Nếu người bệnh sẽ bị bệnh của thầy Thuốc truyền sang thì không lẽ Thầy Nhân Điện đã bị nhiều thứ bệnh (vì trị nhiều người)
Xin ông vui lòng giải thích rõ
Cám ơn ông,
Dang, Ba Hung
Lockheed Martin Aeronautics Company
F-16 Harness Installation
Xin được trả lời 3 câu hỏi của ông như sau :
1-Nhân điện không phải là nội lực, thế thì Khí lực người Thầy Nhân điện ở đâu mà có để trị bệnh.
Trong người ai cũng có nhân điện tối thiểu mới khỏe mạnh không bệnh tật, người có ít người có nhiều, năng lượng nhân điện ấy được cung cấp từ thức ăn và hơi thở. Khi năng lượng dư thừa, nó phát ra bàn tay ấm nóng, nếu dư qúa hóa nhiệt làm cao áp huyết. Nếu một thầy nhân điện, hôm nào mệt mỏi, bình hết điện, mà được người bệnh cao áp huyết truyền sang thì người sẽ ấm nóng hơn lên, và người cao áp huyết dư thừa nhân điện sẽ bớt nhiệt. Đấy là nguyên tắc bình thông nhau.
Nhân điện có nhiều cảm nhận khác nhau, trung bình một người khỏe mạnh, số lượng ion âm dương trong cơ thể quân bình , thí dụ 100 ion âm, 100 ion dương. Khi cơ thể bệnh sẽ mất sự quân bình như dư âm, dư dương, thiếu âm, thiếu dương.
Nhân điện được cảm nhận bằng nhiệt, nếu bàn tay ấm nóng, mà không có bệnh tim mạch áp huyết hay táo bón, đó là người có nhiều nhân điện. Ngoài cách giải thích bằng ion, người ta còn gọi là tĩnh điện, sẽ trở thành động điện khi bàn tay di chuyển nhanh như nắm tay vào qủa đấm cửa, tự nhiên xẹt lửa như điện giựt.
Đó là nhân điện tự nhiên không do tập luyện, không chữa bệnh được, sẽ bị hao mất điện.
Còn nhân điện do luyện tập có nhiều cách khác nhau và có nhiều trình độ khác nhau :
1-Trường sinh nhân điện của Thầy LMĐ lúc đầu dạy cho người ta vô tâm (chân không, ở thể tĩnh điện ), người bệnh thiếu năng lượng thì hút vào, dư năng lượng thì nhả ra, tự nhiên số ion trong cơ thể được quân bình, cảm thấy khỏe. Nếu người thầy nhân điện có trữ lượng ion trong cơ thể do tập luyện được 1000 ion âm và 1000 ion dương, thì có cho đi truyền vào những người bệnh bình thường trên dưới 100 ion âm dương, thì chẳng đáng kể. Nếu đo được số lượng ion của thầy cấp 3 sẽ ít hơn thầy cấp 5, 6. Bây giờ Thầy LMĐ dạy đến cấp 13, bắt buộc phải tập thiền mới thu nạp được năng lượng nhiều, và biết cách xả độc tố khi chữa bệnh cho người khác. Một người thiền đúng có rất nhiều năng lượng, nhân điện chỉ là một phần trong số năng lượng ấy.
2-Năng lượng trong con người từ đâu mà có :
Giải thích theo sự cấu tạo chất trong vũ trụ, thì thân xác con người cấu tạo bằng vật chất như xương cốt da thịt từ thức ăn do đất sinh ra, khi chết đi da thịt tan rã trở thành đất. Như vậy yếu tố đầu tiên tạo ra con người là chất thổ, trong con người có các dịch chất và máu là chất thủy, con người cần không khí để thở giúp hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết.. đó là chất khí, con người cần có một hệ thống dây nối và hệ chỉ huy điều hành cho 3 chất trên hoạt động duy trì sự sống, tạo ra năng lượng hơi ấm cho cơ thể là chất điện, nếu chỉ có 4 chất này thì cũng giống như con vật, nhưng con ngườì còn thêm một chất nữa mà con vật không có, đó là sự thông minh sáng suốt, biết đúc kết những kinh nghiệm, nhưng suy tư, những tư tưởng phân tích tổng hợp, lưu trữ, phát minh.. đó là chất quang.
Trong 5 chất này cũng có âm dương, âm là vật chất thấy được, dương là chất không thấy được, như vậy thổ âm là thức ăn (thấy được) biến thành thổ dương tạo ra sự khỏe mạnh, thủy âm là dưỡng trấp biến thành thủy dương là hồng cầu bạch cầu trong máu, khí âm là hơi thở, khí dương là năng lượng, điện âm là hơi ấm, sức nóng của qủa tim và thân nhiệt, điện dương là từ trường năng lượng tạo ra thần sắc, tinh thần và bộ não. Tập khí công chuyển hóa khí âm (hơi thở, và khí của thức ăn) thành khí dương, từ khí dương tích lũy chuyển hoá thành điện âm, dư thừa nữa thì khí dương và điện âm chuyển hóa thành điện dương, là điện năng, có những cách tập mà con người dùng tay làm cháy sáng bóng đèn tức là điện sinh quang, hoặc đốt cháy tờ giấy, là điện sinh hỏa, ngoài ra điện phát sinh ra điện từ trường, có thể phát sóng từ trường, cao hơn nữa nhận được sóng thông tin tầm xa ngoài không gian vào não bộ để xử lý, phân tách để học hỏi như các vị cao tăng, thiền sư, các nhà tâm linh, tiên tri..
3-Về quy luật chữa bệnh:
a-Nếu bệnh do chất thổ làm hỏng chất thổ như đứt gẫy tay chân, cơ thể gầy ốm , khi chữa mà dùng cùng chất với nó thì ít hiệu qủa hơn là dùng những chất cao hơn nó. Thí dụ uống thuốc viên là chất thổ, kém hiệu nghiệm hơn thuốc nước là chất thủy như thuốc chích.
b-Nếu chất thủy (máu) bị bệnh nhiễm trùng, dùng chất thấp là thuốc viên thuộc thổ không hiệu nghiệm bằng thuốc chích hoặc vào nước biển hoặc lọc máu truyền máu có hiệu qủa nhanh hơn thuốc viên là chất thổ. Nhưng nhanh hơn nữa là dùng chất cao hơn thủy là chất khí, tập thở và uống nước để lọc máu và dùng khí chuyển hóa, tây y và đông y không có phương pháp dùng khí, mà phải tập thở khí công.
c-Nếu khí bị bệnh, như ho suyễn, thuốc thuộc chất thổ, chất thủy, không hiệu nghiệm, phải dùng chất khí hay chất cao hơn nó là chất điện hay chất quang mới mau hết bệnh. Đối với tây y, chất khí là cho hít bình thở oxy, chứ không có phương pháp dạy cho bệnh nhân tập thở, cao hơn khí là điện, cho chạy điện đốt cháy thịt dư vướng cổ hay virus viêm nhiễm trong cổ, trong phổi, cuống họng. Bệnh phong thấp đau nhức thuộc khí ( tây y chưa chữa được bằng thuốc), phải chữa bằng khí công hay chạy điện, tia hồng ngoại..
d-Nếu bệnh thuộc về điện như thần kinh chạm mát, bị điên, thuốc thuộc chất thổ, thủy, khí, không chữa được, phải dùng chất điện và chất quang, tây y chưa có phương pháp dùng điện quang tia laser để chữa bệnh thần kinh. Nhưng tất cả mọi chất bị bệnh, có thể dùng một chất cao nhất là chất quang chữa được mọi bệnh .
Chất quang ở đâu mà có, do tĩnh tâm, tâm bình thế giới bình, do niềm tin tôn giáo, do biết định tâm, ngồi thiền, hoặc được chữa bởi bác sĩ tâm lý thần kinh tạo cho bệnh nhân một niềm tin để thư giãn thần kinh, hết lo lắng, sợ hãi, ám ảnh của khổ đau, bệnh tật…
Đối với đạo Phật, bệnh tật, khổ đau do vô minh, hiểu được vô minh, diệt được vô minh mới hết bệnh hết khổ (trong Bát nhã tâm kinh ).
Đối với Tây y hiện nay đang chữa những căn bệnh nan y như ung thư, vừa thuộc thổ (bướu, sưng viêm..), thuộc thủy (hồng cầu bạch cầu xáo trộn, nhiễm trùng), thuộc khí ( khó thở), thuộc điện (thần kinh suy nhược, đau đớn, mất ngủ), thuộc quang (trí nhớ kém ). Cắt bỏ chỉ tạm thời chữa ngọn tránh lây lan không chữa được gốc bệnh. Chạy hóa trị, xạ trị làm cơ thể đau đớn và suy nhược thêm. Nếu dùng quang để chữa bằng cách tĩnh tâm ngồi hay nằm thiền theo dõi hơi thở, thì thiền là chất quang, định là chất điện, theo dõi hơi thở là tạo khí lực thúc đẩy sự tuần hoàn khí huyết, chuyển hóa thức ăn thành chất bổ, uống nước là chất thủy để thanh lọc độc, ăn chay là chất thổ tốt lành ít độc hại, dễ chuyển hóa. Ông Oshawa bị ung thư phổi cũng nhờ cách này mà khỏi bệnh.
4-Nói theo khoa học, nếu chúng ta muốn có nhà máy điện phải có đủ 3 yếu tố, vật chất (thổ) chế ra trục quay đập chứa nước, guồng quay và dây dẫn điện, nguồn nước là một thác nước ( thủy) và chất khí để tạo ra lực đẩy, đó là độ cao của thác. Nước từ độ cao đổ xuống tạo ra khí lực tạo thủy lực phát động guồng quay truyền vào đông cơ phát điện, từ điện năng có thể biến thành nhiệt năng, cơ năng, quang năng.. do đó con người làm ra được mọi sản phẩm từ điện.
Cũng vậy : trong cơ thể, huyệt là một điểm nhạy cảm như lõi nam châm, mỗi huyệt như một thác nước có độ cao khác nhau tạo ra lượng điện từ trường khác nhau, bàn tay đặt trên huyệt là sơi dây đồng quấn quanh lõi nam châm, hơi thở tập trung vào huyệt ấy là khí lực tạo ra thủy lực, phát sinh ra điện truyền đi khắp cơ thể. Do đó khi cơ thể bệnh, tâp khí công tự chữa bệnh là tập tạo ra điện để chữa bệnh do các yếu tố gây bệnh là điện, là khí, là thủy, là thổ, đều có kết qủa. Ngoài ra, nếu không bệnh tật, tập khí công phát sinh điện năng, mà điện năng không mất sẽ biến thành quang năng, phát sinh trí tuệ, thông minh, phát sinh từ trường hào quang, tạo ra bàn tay ánh sáng để chữa bằng quang năng..
Nhân điện như vậy cũng chỉ là một phần trong qúa trình chuyển hóa chất từ thổ sang thủy, sang khí, sang điện, sang quang. Đi từ dưới lên đến quang là do tập luyện, cao hơn nữa là phát sóng thông tin ra không gian, may mắn nhận được các tín hiệu không gian khác truyền lại trở thành kỳ nhân. Có những người rủi ro té ngã chấn thuơng sọ não, tự nhiên phát sóng thông tin hoặc nhận được sóng thông tin, trở thành người tiên tri, thầy thuốc chữa bệnh đặc biệt…
2-Mất sức thì làm sao Thầy Nhân Điện phục hồi lại sức khoẻ
Khi cơ thể mất sức, mất năng lượng điện do khí huyết bị xáo trộn bất bình thường, theo quy luận chữa bệnh của đông do chất thủy và chất khí hao hụt không cung cấp đủ chất liệu cho chất điện làm thần kinh bị suy nhược mệt mỏi. Để đền bù sự hao hụt này, chúng ta phải bổ sung 2 chất thủy và khí. Bổ sung chất thủy bằng cách uống nước như nước lạnh, nước cam, chanh. Chất khí là tập điều chỉnh lại hơi thở đều. Và điều quan trọng, bệnh ở chất điện do mất quân bình điện âm điện dương, nên điều chỉnh lại chất điện từ động điện trở lại tĩnh điện 0 không âm không dương, đó là lúc chất cao hơn điện là chất quang là từ trường năng lượng vũ trụ vào cơ thể nhiều nhất. Đó là phương pháp tĩnh tâm của Công Giáo, hay phương pháp thiền tĩnh lặng của Phật Giáo, chính lúc ngủ nghỉ cũng là một hình thức thiền vô tâm sơ đẳng nhất để phục hồi lại năng lượng. Đối với khí công chữa bệnh, ở thế dương động là sinh hóa, ở thế âm tĩnh là chuyển hóa.
Uống nước là một chất điện giải, là đem thủy âm vào cơ thể đươc chuyển hóa thành thủy dương, từ thủy dương được sinh hóa thành khí âm (dưỡng trấp) được hơi thở chuyển hóa thành khí dương, khí dương chuyển hóa thành điện âm, tĩnh lặng sẽ chuyển hóa thành điện dương, điện dương lại sinh hóa chuyển hóa thành quang âm là chất bổ sung phục hồi chức năng thần kinh hoạt động mạnh trở lại, sức khỏe sẽ được phục hồi.
Nếu thầy nhân điện biết nguyên tắc này thì không bao giờ mất sức, và phương pháp này chính là phương pháp khí công sơ đẳng. Ngược lại, thầy nhân điện chỉ cho điện từ cơ thể mình sang người khác theo kiểu bình thông nhau mà tưởng là năng lượng vũ trụ, hay do phép lạ, mà cơ thể của thầy nhân điện càng ngày càng mất sức, mệt mỏi suy nhược là không đúng, ngoại trừ trường hợp người cho điện vô tâm, tâm không động, tâm từ bi muốn giúp người vô vụ lợi, là lúc năng lượng của người cho đang tự chuyển hóa để chữa bệnh cho chính bản thân mình trước, có dư thừa mới sang bệnh nhân, cho nên người cho điện không bao giờ mất sức mà còn khỏe thêm, vì mỗi lần cho điện là mỗi lần chính người cho đang tập thu nhận năng lượng vũ trụ ở thể tĩnh. Nếu bệnh nhân ở thể động sẽ không nhận được năng lượng của người cho, nên cơ thể không thấy thay đổi, ngược lại bệnh nhân cũng ở thể tĩnh, sẽ cảm nhận nguồn năng lượng trung tính từ người cho vào cơ thể. Nên phương pháp chữa bệnh của khí công, cả thầy chữa và bệnh nhân đều phải dùng ý tập trung trong thời gian chữa bệnh mới có kết qủa.
3-Nếu người bệnh sẽ bị bệnh của thầy Thuốc truyền sang thì không lẽ Thầy Nhân Điện đã bị nhiều thứ bệnh (vì trị nhiều người)
Như đã giải thích về nguyên tắc sinh hóa và chuyển hóa những chất liệu trong cơ thể. Nếu Thầy Nhân điện không biết nguyên tắc này, thì khi chữa những người bị nhiễm trùng như bệnh cúm, thì chính bệnh nhân đã truyền bệnh cúm cho thầy nhân điện như vậy thầy nhân điện cũng đã bị nhiễm bệnh cúm rồi lại chữa để truyền bệnh sang cho nhiều người khác.Riêng môn khí công chữa bệnh, mỗi ngày có thể chữa mấy chục loại bệnh khác nhau, từ bệnh cảm cúm lây nhiễm đến những bệnh nan y khác, từ ngày này sang ngày khác không mệt mỏi, mà thầy chữa vẫn luôn luôn khỏe mạnh, hồng hào, không bị lây nhiễm nhờ biết phương pháp sinh hóa chuyển hóa các chất trong cơ thể bằng động công và phương pháp thở thiền .
4-Làm sao có nội lực :
Nội lực trong cơ thể chính là sự sung mãn chất âm dương của mỗi thể, từ thể thổ là hình tướng bên ngoài cơ thể, là sức mạnh của cơ bắp, gọi là thể lực. Nhưng nội lực là lực tích lũy được từ các thể, ở thể khí là khí lực, ở thể điện là thần lực, ở thể quang là huyền lực.
Muốn có được các loại nội lực này cần phải tập luyện hoặc tu luyện mới có. Dùng nội lực của hơi thở để vuốt huyệt là khí lực cao hơn một người vuốt huyệt bằng sức mạnh cơ bắp (thể lực), nhưng một người vuốt huyệt rất nhẹ nhàng mà tập trung tinh thần ý chí trong thao tác làm chuyển dịch những ions âm dương trong cơ thể để bệnh nhân khỏi bệnh nhanh thì gọi là thần lực (magic), nếu không cần đụng vào cơ thể bệnh nhân, chỉ dùng tâm đức khi chữa mà bệnh nhân khỏi bệnh gọi là huyền lực (miracle), các nhà tu hành cao tăng đắc đạo mới có huyền lực. Tập luyện môn khí công y đạo sẽ đạt được thần lực, nhưng tu tâm dưỡng tánh, phát triển cả y thuật và y đức, phát tâm làm công tác thiện nguyện lâu dài thể hiện tình thương giúp đỡ bệnh nhân vô vụ lợi, mới có được huyền lực.
Thân ái chào tạm biệt.
doducngoc