Theo kinh nghiệm của
khí công y đạo :
95-100/60-65mmHg, mạch
tim đập 60-120 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg,
mạch tim đập 60-70 là áp huyết ởtuổi thiếu niên (13–17 tuổi)
110-120/65-70mmHg,
mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg,
mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg,
mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
3 số của máy đo áp
huyết có nghĩa như sau :
a-Số thứ nhất tâm
thu chỉ khí lực là dương, khi đo tay trái là khí lực co bóp của bao
tử, khi đo tay phải là khí lực co bóp của gan.
b-Số thứ 2 tâm
trương huyết lực chỉ âm là chỉ lượng thức ăn nhiều hay ít trong bao
tử khi đo bên tay trái, và khi thức ăn biến thành máu thì chỉ lượng
máu mỡ nước nhiều hay ít khi đo áp huyết tâm trương bên tay phải.
c-Số thứ 3 là nhịp
mạch đập, chỉ nóng lạnh, là tốc độ bơm máu của tim lệ thuộc vào
sự co bóp nhanh hay chậm của bao tử khi đo bên tay trái, khác với tốc
độ co bóp nhanh hsy chậm của gan khi đo áp huyết bên tay phải.
Nhịp tim trung bình
đập 70-80 nhịp trong 1 phút, thì cơ thể ấm khoông nóng không lạnh :
-Nếu cao hơn 80 thì
goị là nhiệt, thấp hơn 70 thì gọi là hàn, nên đêng y có tên bệnh cho
gan là gan hàn gan nhiệt, bao tử hn, bao tủ nhiệt.
Nhờ nhịp tim chỉ
hàn nhiệt, chúng ta cũng biết được lượng đường glycogen trong gan,
đường trong bao tử, thí dụ nhịp tim bên bao tử thấp 60 thì bao tử hàn
có nghĩa là người thiếu đường, thức ăn trong tử sẽ không có năng
lượng đường giúp cơo co bóp bao tử chuyển hóa thức ăn, kiểm chứng
bằng máy đo đường, đường huyết thấp dưới 100mg/dL, nhiệt kế đo lòng
bàn tay 36 độ C, cũ có trường hợp đo đường huyết cao 300mg/dL mà
nhiệt kế chỉ trên lòng bàn tay 36 độ C hay chỉ low là đường xấu không
phải đường glucose, đường không cho nhiệt lượng giúp bao tử co bóp
huyển hóa thức ăn, là đường gây bệnh, mà thiếu đường glucose, mà
trong cơ thể đường dự trữ glycogen đã mất hết do thuốc insulin phá
hủy, thời gian dài trong xương và da cũng hết glycogen, không có đường
glucose nuôi tế bào bảo vệ xương và da nên tế bào bị hoại tử phải
cưa chân, mù mắt, xẩy ra sau khi dùng thuốc trị tiểu đường một thời
gian dài, chứ không phải đường cao bị cưa chân trước khi dùng
insulin,
Thí dụ nhịp tim đo
bên gan cao hơn 80 thì đông y gọi là gan nhiệt, thấp hơn 70 thì gọi là
gan hàn, khi gan hàn nhịp tim đo bên tay phải thấp, mà bên bao tử cao,
thì đường glycogen dự trữ trong gan thiếu hụt không đủ nhiệt lượn giũ
ấm gan, và không đủ năng lượng cho ganco bóp bơm máu cung cấp cho tim
tuần hoàn, và túi mật sẽ đặc cứng lại tây y gọi là sạn mật do
cholesterol, triglycerid đông cứng, sờ ấn vao cảm thấy cứng cộm đau.
Khi người có nhịp
tim 2 bên tay đều cao tới 120 là cơ thể bị nhiễm trùng gây ra sốt,
ngược lại không sốt, mà chân tay lạnh, người lạnh mặc áo lạnh, trong
người nóng khô miệng nứt môi, nóng trong bụng là người thiế máu trầm
trọng đông y gọi là chứng âm hư nội nhiêt, thiế máu gây nóng trong
người mà nhaòi lạnh phải mặc áo lạnh.
Khi cả 2 tay có
nhịp tim thấp như dưới 60 là người thiếu đường glucose, mặc dù đo
đường huyết cao 300mg/dL,là do hậu qủa dùng thuốc insulin làm mất
đường dự trữ glycogen trong cơ thể, là đường glycogen chuyển thành
glucose vào máu là đường xấu không cho năng lượng và nhiệt lượng, do
cơ thể thiếu cung cấp đường glucose căn bản hàng ngày theo Hội Tim
Mạch Hoa Kỳ, mỗi ngày tim cần đường để tim co bóp hoạt động không bị
bệnh phải từ 6-9 thìa đường glucose .
Trường hợp đo đường
huyết cao 300-600mg/dL mà nhiệt trên tay lạnh là cơ thể mất đường trầm
trọng thận không hoạt động thì phải lọc thận do đường xấu mà thiếu
đường tốt glucose, nên chúng ta không ngạc nhiên khi uống thêm 10 thìa
cà phê đường cát vàng, thì đo đường huyết không tăng thêm mà lại giảm
xuống 100mg/dL, thí dụ trước jhi uống 10 thìa đường glucose, đường
huyết đo được 400mg/dL, sau khi uống 10 thìa đường glucose, đo lại đường
huyết xuống còn 300mg/dL, tiếp tục uống thêm 10 thìa, đường xuống còn
200mg/dL... nhưng cơ thể ấm dần, bàn tay ấm dần, đo nhiệt trên bàn tay
chỉ 37 độ C, nhưng khi cơ thể đủ đường tốt chỉ cần đường huyết
140mg/dL, bàn tay sẽ nóng ấm 38-39 độ C.
Như vậy chúng ta
không cần máy đo đường khi bàn tay nóng ấm 38-39 độ c là cơ thể đủ
đường, nếu bàn tay nóng 40-41 độc C là cơ thể thừa đường glucose, thì
không cần uống đường thêm, nếu uống thêm. cơ thể tụ thải ra thoe đường
tiểu, khi dùng máy thử 1 giọt nước tiểu, máy đo đường sẽ chỉ từ
10-40mg/dL, do đó tên Việt Nam gọi lat đái tháo đường làm cho cơ thể
tự động bớt đường khi nhiệt độ bàn tay hạ bớt nhiệt, do thế đường
không có tội gây ra bệnh tiểu đường
Nhắc lại cho dễ
nhớ :
Nếu đo bên tay trái
thuộc bao tử: số thứ nhất có nghĩa khi của bao tử co bóp cao hay
thấp, số thứ 2 chỉ thức ăn trong bao tử nhiều hay ít, số thứ 3 trong
bao tử chỉ thức ăn trong bao tử làm bao tử nóng hay lạnh, thức ăn có
tính nhiệt hay hàn
Nếu đo bên tay phải
thuộc gan, số thứ nhất là khi của gan cao hay thấp. số thứ 2 là thức
ăn biến thành máu trong gan thiếu là hư, nhiều là thực, hư có nghĩ
là thiếu máu, số thứ 3 bên gan cao là gan nóng nhiệt, nếu thấp hơn
tiêu chuẩn tuổi là gan hàn,
Khi số thứ 3 hai bên
thấp có nghĩa là người lạnh, bàn tay lạnh, do tốc độ máu chạy chậm
làm máu đặc, nguyên nhân do thiếu đường. cần đo đường để kiểm chứng,
nếu đường thấp là thiếu đường glucose, còn cao là là thiếu đường
glucose mà thừa đường tinh bột cho người tiểu đường loại 2.
Còn nếu đo đường
thấp dưới tiêu chuẩn mà nhịp tim cao trên 110-120 là vừa thiếu máu
vừa thiếu đường glucose, trong người nóng khô lưỡi nứt môi, nhưng tay
lạnh người lạnh vẫn phải mặc ́áo lạnh.
Còn nhịp tim cao
ngoài da nóng trên 40-41 độ là đang bị sốt do máu trong người có vi
trùng, virus đang tấn công.
Còn nhịp tim cao
nhưng dưới 90, nhiệt độ đo 38-39 thì không phải là sốt.