Kính chào thầy, BLT bị yếu thận nên không bài tiết được muối, chất vôi, và uric acid. Bởi vậy BLT bị các bịnh như cao máu, sạn thận, và thống phong (gout). Mặc dù BLT ăn uống rât kỹ lưỡng và tập thể dục thường xuyên, nhất là ăn rất nhạt vì khi thử máu thì thấy lượng sodium thấp hơn bình thường nhưng vẫn bị cao máu. BS nói vì thận yếu nên mới bị các chứng bịnh đó. Xin thày cho biết BLT phải làm gì cho thận hoạt động tốt hơn và để tránh các chứng bịnh kể trên. Cám ơn thày rất nhiều.
BangLangTim
Trả lời :
A-Nguyên tắc :
Chức năng của thận là lọc máu, điều chỉnh lượng nước, đường, muối, vôi, mỡ (cholesterol) . Phản ứng giữa đường, muối, vôi trong cơ thể không cân bằng do thiếu nước thuộc thận thủy âm . Việc đầu tiên phải uống cho đủ số lượng nước để cân bằng phản ứng hóa học trong cơ thể.
Sau đó phải bổ phế kim để nuôi thận, và đưa hỏa dư thừa của tâm hỏa (đã làm ra bệnh cao máu, máu đặc hóa vôi ) theo tam tiêu dẫn xuống Mệnh môn hỏa thận dương để chuyển hóa thận thủy biến thành thận khí làm công việc lọc, chuyển hóa vôi ,đường, mỡ (cholesterol) trong máu và đào thảo những chất cặn bã dư thừa ra khỏi cơ thể bằng hệ bài tiết .
Muốn giúp sự bài tiết các chất cặn bã trong nước tiểu được nhanh, cần phải chọn một chất xúc tác tống sạn và cặn vôi trong thận và bàng quang ra khỏi cơ thể .
B-Thực hành :
1-Ra tiệm thuốc Bắc mua 1 lọ thuốc tên Thạch lâm thông (Shilinton) chứa 100% lá Cỏ đồng tiền (Kim tiền thảo), tối uống 5 viên để ban đêm thuốc làm mền sạn vôi trong thận, sáng uống 5 viên khi ngủ dạy trước khi đi tiểu để thuốc làm vỡ sạn ra thành bột, sau 30 phút đi tiểu thấy nước tiểu cặn đục như nước vôi.
Công dụng của Kim tiền thảo :
Tên khoa học Desmodium styracifolium, còn gọi là Đồng tiền lông, có vị ngọt, tính mát, vào các kinh can, thận, bàng quang để thanh nhiệt, trừ thấp, lợi tiểu, thông tiểu giúp đi tiểu nhiều, chữa sạn thận, sạn mật, sạn bàng quang, viêm gan vàng da, viêm phù thận, tiểu ra sạn, tiểu gắt, bí tiểu. Liều dùng : Nấu 30-40g Kim tiền thảo uống như nước trà mỗi ngày..
2-Ban ngày uống 10-15 lần nước, mỗi lần 150cc, ăn cơm có canh cho đủ tối thiểu 2 lít nước một ngày.
3-Tập động công Bài Vỗ tay 4 nhịp 200 lần để bổ phế kim nuôi thận thủy . Bài Cúi ngửa làm mạnh thận giúp thận chuyển hóa lọc máu, tống sạn. Vặn mình để làm mạnh gan tỳ để chuyển hóa đường. Dậm chân hát one, two, three… để chữa thống phong (gout) giúp khí huyết tuần hoàn khắp cơ thể. Đứng Hạc tấn mở mắt , mỗi bên chân đứng lâu 2 phút mà vẫn giữ được thăng bằng không bị té ngã, mục đích cho khí huyết đưa xuống chân làm giảm áp lực huyết nơi tim áp huyết sẽ hạ xuống mức bình thường.
4-Nếu áp huyết cao, có thể tập ở tư thế nằm ngửa, tập Bài Nạp khí trung tiêu: Đưa thẳng hai chân lên khỏi giường 45 độ, hai bàn tay đặt chồng lên nhau trên rốn, cuốn lưỡi ngậm miệng, thở bằng mũi, giữ chân lâu 1-2 phút rồi hạ chân xuống, vẫn ngậm miệng thở bằng mũi, khí bị nén trong bụng không có lối thoát ra miệng, nó sẽ tạo những sóng nhồi bụng phình lên xẹp xuống tự động giúp trung tiêu chuyển hóa các chất nước, đường, muối, vôi . Khi bụng hết bị khí nhồi thì Tập đưa chân lên tập tiếp, 5 lần như vậy . Sau đó, nằm kéo đầu gối phải sát vào gan trong thì hít vào bằng mũi, duỗi chân ra thì thở ra bằng miệng, hai bàn tay đổi sang kéo đầu gối bên trái đụng vào bao tử ở thì hít vào bằng mũi, duỗi ra thở ra bằng miệng. Kéo đầu gối bên này bên kia luân phiên kể là 1 lần, kéo 30 lần để chữa bệnh tiêu hóa, và đau lưng thận.
5-Kiêng ăn :
Kiêng cữ thịt bò, gia vị cay, các chất tạo nhiệt như nhãn, xoài, sầu riêng, chôm chôm, cà ri, bia, coke, cà phê, thuốc lá, các chất làm đặc máu như calcium, tôm cua, đồ biển...
Nên uống nhiều nước đủ để cho thận lọc máu mỗi ngày.
6-Cách tập thở làm hạ áp huyết :
Đi đứng nằm ngồi đều tập được. Đo áp huyết có 3 số hiện trên máy đo, thí dụ 165/100mmHg và 90
Con số 165 là áp lực của tâm thu, 100 là áp lực của tâm trương, và 90 là nhịp tim đập trong 1 phút.
Có 3 cách tập thở riêng biệt để làm hạ riêng áp lực của tâm thu, tâm trương và nhịp tim như sau :
Muốn làm hạ áp lực tâm thu :
Hơi thở ra phải mạnh, nhanh và dài như thổi bếp lửa, sau khi thổi và đo áp huyết lại thì số đo của tâm thu xuống dưới 140 mmHg, nhưng số tâm trương tăng cao trên 100mmHg.
Muốn làm hạ áp lực tâm trương :
Khi thổi hơi ra phải làm cho hơi trong bụng ra hết, rồi thả lỏng gân cơ, bụng phải mềm, không nén hơi, nâng ngực nâng vai. số tâm trương sẽ hạ xuống dưới 100mmHg
Muốn làm hạ nhịp tim đập nhanh :
Giữa hai lần thổi hơi ra phải cách nhau 5-10 giây nghỉ ngơi buông lỏng thì nhịp tim sẽ đập chậm lại, không được thổi gấp, không được nén hơi để chờ thổi tiếp, không được thổi ngắn hơi nhịp tim sẽ tăng .
Khẩu quyết để tập luyện cho áp huyết xuống thấp cả 3 số sẽ là :
Thổi mạnh, nhanh và dài - hơi trong bụng ra hết -5-10 giây nghỉ ngơi buông lỏng (cho hơi vào bụng tự nhiên, mũi không cần hít vào, khi bụng đủ hơi thì thổi ra tiếp.
Đã có nhiều bệnh nhân bị bệnh cao áp huyết đang dùng thuốc tây, nhưng áp huyết lúc nào cũng cao, mỗi lần đo đều ở tình trạng nguy hiểm như 220/140mmHg nhịp tim 140 . Sau khi được hướng dẫn tập thở đúng, và để bệnh nhân tự tập lấy một mình không cần hướng dẫn, số đo đã hạ xuống 145/98mmHg nhịp tim 80. Các bệnh nhân về nhà tập tiếp khi đi đứng nằm ngồi, làm việc đều tập thở theo phương pháp trên, một tuần sau đến phòng mạch, tôi đo lại áp huyết đã được ổn định 130/80mmHg, nhịp tim 77.
Phương pháp của khí công chú trọng đến hai điều quan trọng là cách luyện thở và cách tập trung ý để dẫn khí. Quy luật của khí công là Ý ở đâu thì Khí ở đó, và khí đi đâu huyết đi theo đó .
Cho nên Cách thở vẫn giống như trên, nhưng Ý nghĩ đến Huyệt Dũng Tuyền nơi gan bàn chân, và tưởng tượng khi thổi khí ra, khí sẽ thoát ra hai bàn chân . Thổi mạnh nhanh dài đều đặn, chậm rãi thả lỏng dẫn khí chạy xuống chân, không chủ động hít vào, mà chờ khí vào bụng đầy tự nhiên, mới thổi ra dẫn khí xuống chân lần thứ hai… Kết qủa của cách tập này đã làm áp huyết xuống mức thấp nhất của bệnh nhân trên còn 114/68mmHg nhịp tim 70.
Những trường hợp cá biệt :
1-Có trường hợp áp huyết thấp nhưng nhịp tim qúa nhanh khiến bệnh nhân bị mệt mà tây y tìm không ra bệnh, thí dụ áp huyết đo được 120/68mmHg, nhịp tim 90,
Trong trường hợp này chỉ cần tập giữa hai hơi thở phải buông lỏng, chậm lại không được hít vào mà chờ hơi vào bụng đầy tự nhiên mới thở ra chậm, dài,lâu, rồi chờ hơi vào bụng đầy tự nhiên lại thở hơi ra chậm dài lâu…nhịp tim sẽ xuống được 70
2-Có trường hợp cả 3 số đều cao như 220/150mmHg nhịp tim 145, sau khi tập áp huyết xuống 140/80mmHg nhưng nhịp tim chỉ xuống đến 100 mà không thể nào xuống thêm được nữa, chứng tỏ trong người dư thừa hai chất vôi và cholesterol, khi hỏi ra bệnh nhân cho biết có bị bệnh cholesterol cao và xốp xương mỗi ngày phải uống 2 viên calcium. Trường hợp này cần phải dùng huyệt để làm hạ cholesterol và calcium
Bảo bệnh nhân dùng hai ngón tay cái đè vào huyệt Du Phủ hai bên, bấm hơi có cảm giác đau rồi giữ nguyên như thế trong lúc tập thở cho hơi ra khỏi huyệt Dũng Tuyền. Thổi chừng 10 hơi, rồi đo lại áp huyết, tất cả 3 số đều xuống, nhất là nhịp tim xuống bình thường 75 nhịp đập trong 1 phút. Dĩ nhiên ngày hôm sau nếu tiếp tục uống calcium và ăn chất béo, đồ biển, bơ sữa, fromage… sẽ làm sưng tuyến giáp trạng ,cường giáp cũng làm cho áp huyết tăng cao trở lại, do đó cách tập thở này sẽ giúp cho tuyến giáp trạng hoạt động trở lại bình thường giữ cho áp huyết ổn định không bị tai biến. Cách này có thể tập suốt đời mà không nguy hiểm như cách phải dùng thuốc suốt đời, ngược lại còn giúp cho sự chuyển hóa thuốc dư thừa bị đào thải ra khỏi cơ thể để không gây phản ứng phụ do hậu qủa lâu dài của thuốc.
Với nguyên tắc Ý ở đâu khí ở đó, đối với người lớn tuổi không có thể tập thở đúng được, chỉ cần kích thích ý xuống huyệt Dũng tuyền cũng có kết qủa làm hạ áp huyết bằng cách đóng một khung gỗ vuông mỗi chiều 25cm, cao 5-10cm, đổ đá dăm vào khung. Mỗi ngày tập 2-3 lần đi chân không trên đá dăm 10 phút (chân để trần hay đi vớ mỏng), tập khoảng 1 tuần lễ, áp huyết ổn định, ngủ ngon, ngừa tai biến mạch máu não vì công dụng của huyệt Dũng tuyền là thanh thận nhiệt (chữa tiểu đường), giáng âm hỏa (chữa đau nhức nóng trong xương, cao áp huyết, mất ngủ), giải quyết nghịch ( chữa cứng gân cơ, co thắt ống mạch), khai khiếu, định thần, tỉnh não ( chữa tắc máu não, não thiếu oxy, ngừa nhũn não, tăng cường trí nhớ), chỉnh thần kinh (chữa đau đầu chóng mặt) .
3-Trường hợp Áp huyết thấp.
Không được tập trung ý ở huyệt Dũng tuyền dưới chân, ngược lại phải tập trung ý nơi đỉnh đầu, huyệt Bách Hội làm thăng dương khí lên đầu .
Dùng thủ pháp bổ để bình can tức phong, tiềm can dương, khai khiếu định thần, cấp cứu hôn mê bất tỉnh,chữa thoát dương, dương khí hạ hãm làm thở khó do thiếu oxy làm chóng mặt.
Dùng thủ pháp tả để tiết nhiệt dương kinh khi bị sốt nhiệt hôn mê, cao áp huyết, đau đầu do gan sung huyết...
Cách tập thở : Hít hơi vào nhiều đầy ngực đầy bụng, nín thở 5 giây, khi thở ra chậm tưởng tượng thở khí ra đỉnh đầu , thở 10-20 lần từ từ cảm thấy đầu nóng ấm là áp huyết đã tăng.
Có thể làm áp huyết tăng bằng cách bấm huyệt Vân môn khi thở hơi ra khỏi đỉnh đầu.
Chú ý : Hai huyệt Vân môn và Trung phủ gần nhau.
Huyệt Vân môn tăng cường phế khí làm tăng áp huyết (chữa ho do thiếu khí, tắc khí do bướu cổ).
Huyệt Trung phủ thanh tuyên thượng tiêu, sơ điều phế khí, tỳ khí, làm hạ khí hạ đàm, làm hạ áp huyết do vị khí nghịch ,do ăn không tiêu.