Hôn mê là một loại bệnh khó chữa nếu thầy thuốc không biết rõ nguyên nhân hoặc tình huống xảy ra cơn hôn mê, vì nó có tầm quan trọng trong việc chẩn đoán. Nếu thầy thuốc không có một chỉ dẫn nào đáng tin cậy chúng ta phải xét đến tất cả những nguyên nhân có thể gây ra :
Nguyên nhân do chấn thương sọ não :
Chấn thương sọ não là sọ não bị tổn thương do va chạm như bị đánh đập, té ngã, cần phải đưa đi bệnh viện cấp cứu khám chuyên khoa, những lời khai của nhân chứng hoặc từ chính nạn nhân sẽ giúp rất nhiều cho việc chẩn đoán. Theo tây y, từ khi bị chấn thương phải xem tình trạng ý thức còn minh mẫn trả lời câu hỏi hay ý thức bị u ám, ra lệnh cử động xem còn thi hành được đúng hay sai, hay bệnh nhân đã thiếp đi, gọi thì thức dậy, hoặc hôn mê nhẹ, hoặc hôn mê hoàn toàn, hoặc hôn mê sâu với tiếng thở rỗng. Phải tìm dấu hiệu vỡ lõm sọ hay bọc máu, ở đáy sọ làm máu hoặc dịch tủy sống chảy ra mũi, tai, dấu bầm quanh hốc mắt. Tìm dấu hiệu thần kinh phản xạ không đối xứng, trương lực cơ, cứng người, phản xạ giác mạc, cơn co giật, rối loạn chức năng sự sống như hô hấp, tần suất, tim mạch..
Tìm dấu hiệu khoảng trống, bệnh nhân tỉnh như thường sau hôn mê để chẩn đoán có thể cứu sống bệnh nhân kịp thời hay không, nếu có bọc máu dưới màng cứng hoặc ngoài màng cứng, tối cấp, thì nạn nhân còn sống không lâu hơn khoảng thời gian đã tỉnh lại trong khoảng trống.
Những dấu hiệu do chấn thương sọ não :
Hô hấp từng hồi do rối loạn hô hấp loại Cheyne-Stokes xảy ra từng hồi trước khi hô hấp ngưng trong tăng áp lực nội sọ và tổn thương não nặng hoặc loại hô hấp Biot ngưng ngắt quãng.
Giãn đồng tử một bên do bọc máu trong não cùng bên hoặc bọc máu ngoài màng cứng, hoặc tuột kẹt thùy thái dương.
Chấn thương sọ não cũng có thể là hậu qủa của một cơn đột qụy hoặc một cơn động kinh làm hôn mê do chấn động não, có dấu hiệu bầm dập, tụ máu, bọc máu ngoài màng cứng, dưới màng cứng, xuất huyết màng não, phù não, giập não, gẫy xương đáy sọ, rối loạn điện phân, suy hô hấp, viêm màng não, để ý khoảng trống sau chấn thương để chẩn đoán bọc máu. Trường hợp này thường xảy ra do tai nạn hoặc do bệnh chóng mặt nhức đầu làm té ngã va chạm tổn thương bộ đầu.
Nguyên nhân do thần kinh :
Có dấu hiệu tổn thương màng não xuất huyết, sốt, bướu, bọc máu trong sọ, trương lực hoặc các phản xạ không đối xứng, có nét nhăn mặt không đối xứng, dấu hiệu Babinski tổn thương hành não làm rối loạn tiểu não và giao cảm, đồng tử không đều, do nhiễm oxyde carbone, động kinh co giật trong viêm não, viêm tĩnh mạch huyết khối ở não, nghẽn mạch máu do khí, do cholestérol, mỡ, làm tắc nghẽn mạch, giảm áo lực sọ não, giảm oxy mô. Trường hợp này thường xảy ra do ngộ độc hóa chất, xăng dầu làm ngộp thở hoặc tắc mạch não làm não thiếu oxy khiến tăng trương lực làm vỡ mạch tổn thương màng não.
Nguyên nhân do chuyển hóa :
Do giảm lượng đường trong máu (glucoza-huyết). Do nhiễm kiềm, tăng uré huyết, do bệnh gan, do bệnh hô hấp giảm oxy-huyết. Do nội tiết như phù niêm, giảm năng tuyến yên, do ngộ độc oxyde carbone, salicylé, aspirin, cloran, strychnine, belladon, digitalin, Optalidon, thuốc an thần.. có thể làm hôn mê co giật, khít hàm, cơ co cứng, hoặc hôn mê hô hấp bình thường, tim đập nhanh, đồng tử co lại. Trường hợp này thường xảy ra đối với các bệnh nhân bị bệnh tiểu đường thường xuyên uống thuốc hoặc chích insulin theo thói quen bất cẩn mà không đo thử lượng đường trước khi uống thuốc hay chích. Khi lượng đường trong máu hạ qúa thấp gây hôn mê. Nếu may mắn được chữa tỉnh lại cũng để lại di chứng co rút lưỡi, nhẹ thì nói không rõ, nặng thì không nói được và không nuốt thức ăn được, phải cho ăn bằng đường bụng.
Đã có một bệnh nhân bệnh tiểu đường, cách đây 5 năm bị stroke làm hôn mê được cứu tỉnh, bệnh nhân được ở nhà già có y tá chăm sóc, những ngày nắng ấm, bệnh nhân đi bộ chơi, thường ra thư viện mượn sách về đọc. Khi bị stroke lần thứ hai được cứu tỉnh, hai chân yếu không đi dạo chơi bên ngoài được, chỉ đi dạo quanh khuôn viên bệnh viện. Khi bị stroke lần thứ ba được cứu tỉnh, chân yếu sức, lưỡi co rút không nói được nhưng còn nuốt thức ăn được. Ngày nào y tá cũng phải chích insulin theo thường lệ, nhưng khi bị stroke lần thứ tư do lượng đường trong máu xuống thấp, lúc cứu tỉnh, bệnh nhân không nói được, ăn nuốt khó khăn. Tiếp tục chích insulin bị stroke lần thứ năm, sau khi cứu tỉnh, bệnh nhân không nói, không ăn, không nuốt được, bệnh viện đành phải dùng giải pháp cho ăn bằng đường bụng, gắn ống thường xuyên, không gỡ ống chuyền thức ăn ra cho bệnh nhân tập đi lại vận động để chuyển hóa thức ăn. Bệnh nhân tỉnh táo, nhưng thức ăn bằng đường bụng không chuyển hóa do nằm một chỗ, bụng đầy, thức ăn không chảy vào bụng nữa làm tim mạch rối loạn khiến bệnh nhân bị mệt, thân nhiệt tăng, hơi thở mạnh, đầu, trán, lòng bàn tay nóng ra mồ hôi. Trong cách điều trị có điều gì không ổn.
Nguyên nhân do hư thận :
Dấu hiệu phù, albumine-niệu nặng, tăng trên 3g/24 tiếng, giảm protide huyết dưới 60g/l, giảm albumine-huyết dưới 30g/l độ lắng máu nhanh, lipide huyết tăng cao hơn 15g/l, tăng cholestérol-huyết và tăng triglyceride-huyết.
Hư thận đơn thuần không tăng áp huyết, không có huyết niệu vi thể. Hư thận không đơn thuần có huyết niệu vi thể, suy thận, tăng áp huyết do nhiều nguyên nhân khác :
Viêm thận tiểu cầu mạn, viêm thận tiểu cầu ngoài-màng, viêm thận tiểu cầu tăng sinh, đái tháo đường do thận khi giải phẫu thấy màng nền mao mạch của tiểu cầu thận, ống thận dầy lên phát triển những cục trong những mao ấy. Do thoái hóa dạng tinh bột, u tủy, do ngộ độc nước (uống với lượng nhiều theo thói quen), do thuốc muối vàng, bismuth , triméthadion, paraméthadion, phénindion, phénylbutazone, do liệu pháp huyết thanh, liệu pháp vaccin, do huyết khối tĩnh mạch thận, do hư thận cận ung thư..Trường hợp này thường xảy ra ở những người uống nhiều nước do phải uống nhiều loại thuốc chữa bệnh khác nhau trong thời gian lâu dài làm chức năng thải lọc của thận bị hư hại khiến tuyến thượng thận không điều hòa được sự trao đổi chất, lúc đó créatin tăng cao, tây y cần phải lọc thận, và khi thận suy, áp huyết tăng, trương lực cơ, thần kinh tăng làm thiếu máu não, tắc nghẽn mạch đi đến hôn mê và tai biến mạch máu não.
Theo đông y, khi một người bị lọc thận có nghĩa là thận âm hư, thận dương không chuyển hóa trao đổi chất. Thận dương hư có thể thận âm không tổn thương, chỉ là chức năng chuyển hóa, còn thận âm hư có tổn thương thực thể teo, sưng ..thì thận dương cũng hư hỏng không làm nhiệm vụ chuyển hóa được, nguyên nhân do uống nhiều nước vô cớ, hoặc phải dùng calcium nên phải uống nhiều nước. Có những bệnh nhân ban đầu bị bệnh cao áp huyết gây áp lực cho tim mạch khiến thân nhiệt tăng, tim ngực nóng, dùng thuốc hạ áp huyết nếu thực sự áp huyết được hạ thì nhiệt được hạ, hỏa khí hạ đã đủ mà uống nhiều nước khiến thủy khắc hỏa làm mất nhiệt lượng trong cơ thể, không giúp tỳ vị thổ chuyển hóa thức ăn, cơ thể thiếu năng lượng và nhiệt khí sinh lạnh hàn, uống nhiều nước làm dư thừa sưng thận, phù chân, tê liệt, tuyến thượng thận là thận dương không tạo ra nội tiết tố để giữ quân bình nhịp sinh học tâm-thận làm nhiệm vụ khí hóa, bàng quang bị ứ đọng rối loạn đường tiểu không tự chủ kiểm soát được, khi tiểu nhiều, khi bị chèn ép gây bí tiểu. Áp huyết và tim mạch tuần hoàn không đều đặn, lượng máu vào não không đủ làm mất tri giác, mạch máu não bị tắc gây đứt mạch làm tai biến mạch máu não. Đông y cần phải đối chứng trị liệu lâm sàng mới có thể điều chỉnh lại sự quân bình âm dương, tăng sự sinh hóa và chuyển hóa trao đổi chất cho cơ thể tái lập lại sự khí hóa tổng thể.
Cách đây bốn năm, tôi có một lớp hướng dẫn tự chữa bệnh bằng khí công tại Chùa Tây Tạng ở Longueuil, gặp một nữ bệnh nhân dáng người phù nề, mệt mỏi, không sức lực, mắt mặt môi tái nhợt, đang trong thời kỳ lọc thận một tuần hai lần ở Bệnh viện Notre-Dame. Sau khi được hướng dẫn tập khí công và cách tự chữa bệnh ở nhà, bà ta khỏe dần, chân tay bớt phù, da mặt hồng hào, đã có thể tự lái xe hơi đến chùa để theo học lớp khí công. Bệnh viện cho bà lọc thận một tuần một lần, bà vẫn tiếp tục tập khí công tự chữa bệnh, đến nay đã khỏi bệnh không cần phải lọc thận nữa.
Trong một ca khác, năm ngoái, khi tôi hướng dẫn tự chữa bệnh bằng khí công ở Chùa Long Hoa tại Toronto, trong đó có hai bệnh nhân tê liệt bán thân bất toại phải đi bằng xe lăn, đang nằm điều trị tại bệnh viện, họ đã xin xuất viện nửa ngày lấy lý do đi dự lễ cầu nguyện theo nghi thức tôn giáo bản xứ, để đến chùa chữa bệnh. Tôi có dịp được chữa cho hai bệnh nhân này đi đứng lại được, trong đó có một bệnh nhân đang phải lọc thận thuộc bệnh thận hư mãn tính mất khả năng chuyển hóa mới trở thành hôn mê nhẹ sau đó bị tê liệt bán thân. Tình trạng sức khỏe bệnh nhân bình phục, mỗi lần đến chữa bệnh tại Chùa Linh Sơn, ông tự đi đến bằng xe bus. Hiện nay ở nhà ông vẫn tự tập luyện hơi thở tĩnh công và tập động công và ông không cần phải đến chữa bệnh tại chùa nữa. ( Xem thêm bài cảm tạ bên dưới).
Trên thực tế khi cấp cứu những trường hợp hôn mê nặng, ngoài việc theo dõi những dấu hiệu sống qua thông số điện tâm đồ, điện não đồ, tim mạch, áp huyết, lượng đường trong máu, hơi thở, thân nhiệt, thầy thuốc còn phải tìm phản ứng phản xạ gân cơ để biết có bị liệt hay không, phản xạ đồng tử, phản xạ tri giác, tắc nghẹt đờm, tiêu hóa, bụng cứng hay mền, có còn tiêu tiểu được không, và điểm quan trọng nhất để cứu sống bệnh nhân là phải thông máu bầm và làm giảm áp lực sọ não bằng cách nặn máu thoát ra đầu ngón tay và đầu ngón chân. Y tá mỗi lần nặn máu thử tiểu đường thường dùng kim châm vào đầu một ngón tay, chúng ta là người thân của bệnh nhân có thể nhờ cô y tá châm vào 10 đầu ngón tay và ngón chân, đối với đông y châm cứu gọi là châm thập tuyên, làm như vậy để thông khí huyết 12 kinh mạch lưu thông để khí huyết không bị bế tắc. Chúng ta để ý khi nặn máu ra ở mỗi ngón, trước ra mầu bầm đen cho đến khi máu đỏ tươi là đường kinh của ngón tay ấy đã thông, ngón nào chưa ra được máu đỏ tươi là đường kinh của ngón đó còn bị tắc, phải bấm nặn cho ra máu đỏ mới khỏi bệnh. Trong ba ngày liên tiếp 10 đầu ngón tay ngón chân ra máu đỏ là đã cứu được bệnh nhân, sau đó những máu bầm trên não được áp lực của hơi thở kinh mạch tuần hoàn đều đặn liên tục, một ngày một đêm 24 giờ khí xuất phát từ phổi đẩy máu tuần hoàn, một hơi thở ra thở vào kinh mạch đi được 3 thốn, 24 giờ tuần hoàn trở về phổi là đã thông được một đường kinh dài 81000 thốn, đông y gọi là đồng thân thốn là chiều ngang của ngón tay cái dài ngắn của mỗi người mỗi khác nhau nên không thể đo chính xác 1 thốn là bao nhiêu centimètre, dĩ nhiên khí phải đẩy máu bầm đi chỗ khác, máu bầm theo kinh xuống cổ họng và đẩy ra đường tiểu, do đó chúng ta không thấy làm lạ khi bệnh nhân tiểu ra máu bầm không phải nguyên nhân do nhiễm trùng đường tiểu, ngay cả máu bầm xuống cổ họng bị hơi thở làm đông đóng cục trong cổ họng khiến nghẹt gây khó thở, người nhà cần phải lưu ý nhờ y tá móc ra. Đi tiểu ra máu có thể ra trong một tuần, cơ thể tự điều chỉnh sự khí hóa mạnh để loại máu bầm trong não cho sạch làm cho thân nhiệt tăng, lúc đó bác sĩ sẽ cho thuốc hạ nhiệt và chống nhiễm trùng đường tiểu.
Ngược lại sự cấp cứu không có kết quả khi có dấu hiệu không chữa được nếu khi nặn máu thông 12 kinh, chỉ có 6 kinh trên tay ra máu, còn 6 kinh dưới chân không ra máu, chúng ta chỉ thấy lỗ kim châm khô, nếu nặn mãi máu cũng không ra hoặc rỉ ra một ít nước trắng vàng là huyết thanh, chứng tỏ máu dưới chân đã đông đặc, nửa thân dưới đã chết, người và tứ chi sưng phù, sự tuần hoàn huyết sẽ bị nghẽn tắc do đông máu từ từ cho đến khi tim ngừng đập.
Thư cảm tạ
Ngày 2 tháng 3 từ trong Khu lọc thận của Bệnh viện gọi về gia đình báo tin ba bị lên cơn stroke phải chuyển qua phòng cấp cứu. Nghẹn ngào dân tới cổ mà không biết Trời còn đang bắt tội ba gì nữa đây? Thân già nghiệp bệnh cưu mang không biết bao nhiêu thứ bệnh trong người từ năm 1994 cho đến nay (bệnh áo huyết cao, thận hư, rối loạn nhịp tim..).
Vào phòng cấp cứu nhìn ba nằm đó mà lòng đau như cắt. Càng đau lòng hơn khi ba tỉnh lại và luôn miệng hỏi :’’Con ơi ! Ba bị bệnh gì mà sao nhấc chân lên không được ? Sao phần thân thể bên phải của ba không có cảm giác gì hết vậy con?’’ Nào dám nói gì hơn với lời giải thích cho ba yên tâm là: ‘’Không sao đâu, bác sĩ đang tìm nguyên nhânvà sẽ cho biết kết qủa’’, dù biết rằng những ai đã bị tai biến mạch máu não thì cuộc đời chấm hết kể từ đây. Thế rồi gia đình, cũng như tôi ngày đêm cầu nguyện và mong có phép lạ nào đó cho ba được gặp thầy gặp thuốc mà đem người chồng, người cha, người ông trở lại với gia đình. Phone hỏi thăm bạn bè những ai từng có kinh nghiệm người thân bị ‘’stroke’’ giống như ba tôi để tìm thầy hay, giỏi chữa trị và làm thế nào mà ‘’deal’’ với cái vấn nạn suốt đời này. Kết qủa là những sự thật rất đau lòng cho người bệnh cũng như những thân nhân của họ. Một áp lực qúa lớn lao, nhứt là ở xứ Bắc Mỹ này, là ai cũng bận rộn, phải chạy đua vật lộn với đời sống và sinh kế cho gia đình, nên làm sao mà lo lắng, chăm sóc chu đáo cho cha gìa được đây khi đã bị tai biến mạch máu não.
‘’Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng kể ngày’’. Câu thành ngữ này giờ đây nói lên một điều rất đúng là gia đình anh em tôi tuy gồm có 10 người, vẫn chưa tròn bổn phận và cảm thấy có lỗi với cha. Tuy rằng hằng đêm mỗi người con phải thay phiên nhau ở bên giường bệnh mà xoa bóp nửa phần thân thể tê cứng làm phiền giấc ngủ của ba vô cùng. Trong khi đó, dù đã hỏi qua bốn bác sĩ về khả năng bình phục của ba sẽ như thế nào? Thì tất cả đều có một câu trả lời giống nhau là cái cảm giác sẽ vĩnh viễn không bao giờ có trở lại ! Còn sự đi đứng thì sẽ phải mất nhiều thời gian. Mà thời gian thì đã có người ba năm rồi vẫn ngồi xe lăn, tệ hơn nữa là mẹ của cô bạn tôi đã ngồi xe lăn bẩy năm rồi ! Vẫn không nản chí và cầu nguyện ơn trên cho ba gặp thầy gặp thuốc. Lời cầu nguyện của gia đình tôi chắc có lẽ thấu tới Trời xanh nên xui khiến cho tôi được đọc bài báo cảm tạ của anh Hồ Minh trong báo Thời Mới về sự chữa trị tuyệt vời của Thầy. Đặt hết lòng tin vào thầy, tôi phone ngay lên Montreal mà cầu cứu cho ba, và cũng là một duyên may, Thầy Đỗ đức Ngọc có nói là sẽ xuống Toronto vào ngày 22 tháng 3 và kêu tôi liên lạc ngay với người mua vé là anh Hồ Minh. Tính từ ngày ba tôi nhập viện cấp cứu là ngày 2 tháng 3 cho đến ngày 21 tháng 3 năm 2004 là ba tôi chỉ nằm trên giường, mà mọi sự sinh hoạt cá nhân, đứng lên ngồi xuống vẫn cần hai người giúp đỡ. Còn cái chuyện đi đứng là chỉ ở trong mơ.
Vào ngày 22 tháng 3 được sự chữa trị tận tình của Thầy Ngọc, chỉ trong khoảng 30 phút, thế mà ba tôi bước ra khỏi phòng với sự dìu dắt của thầy và một đệ tử khác. Trong tiếng vỗ tay khen ngợi và khích lệ, ba tôi bước thêm nhiều bước nữa trong niềm xúc động của tất cả mọi người. Có thể nói là một phép lạ ! Thế rồi thầy lên Toronto lần thứ hai vào ngày 1 tháng 4, và sau một tiếng chữa trị thì ba bước ra khỏi phòng, và với một tay của thầy phụ giúp lấy thăng bằng mà ba đã bước đi mấy vòng trong chánh điện của Chùa Long Hoa. Thế mà chỉ trong vòng một tháng sau, ba tôi đã có lại sự đi đứng bình thường. Đối với những người bị bệnh stroke bán thân bất toại như ba thì thật là chuyện hi hữu, không thể có được.
Hôm nay viết lá thư này, thay mặt gia đình cảm tạ Thầy Đỗ đức Ngọc đã đem lại sự sống mới cho ba tôi và niềm vui qúa lớn lao cho gia đình. Điều này dẫu cho ‘’tiền rừng bạc đống’’ cũng chưa chắc đã có thể mua được. Tấm lòng và sự chữa trị của Thầy chỉ có những vị Bồ tát mới làm nên được những việc huyền diệu như thế. Xin chân thành cảm tạ Thầy.
T.Mai
BÀI ĐỌC THÊM :
TRONG HÔN MÊ SÂU THẦN THỨC ĐI VỀ ĐÂU ?
Dãy lầu tằng 9 của bệnh viện toàn những ca cấp cứu hôn mê, nhìn những thân nhân với bộ mặt rầu rĩ, lo lắng, sợ hãi, chán nản, thất vọng, hồi hộp.. đang chờ ở phòng đợi được các cô y tá cho vào thăm từng hai người một lần cho mỗi phòng bệnh, có người sốt ruột đi tới đi lui, hết ra lại vào, thời gian như ngừng lại, đồng hồ trên tường chỉ 7 giờ tối.
Khi người nhà liên lạc được với y tá bằng điện thoại bên trong phòng cấp cưú, cô dẫn tôi vào phòng, lấy áo choàng mầu vàng khoác vào người tôi, và đưa tôi đeo găng cao-su trắng mỏng trước khi tiếp xúc trên mình bệnh nhân.
Một người đàn ông nằm trên giường, mắt phải và môi sưng bầm tím, mắt nhắm nghiền, hai cánh tay, các ngón tay và bắp chân sưng phù nước bóng loáng, người bất động, hơi thở thoi thóp, trong phòng im phăng phắc, chỉ nghe rõ tiếng kêu sịch-sạch của máy truyền thức ăn lỏng vào mũi, và tiếng kêu sọc-sọc của hơi nước đọng lại trong ống thở bên ngoài mũ chụp nơi mũi miệng, thân nhiệt cao, người đang bị sốt nhiễm trùng đường tiểu, áp huyết cao 220/100mmHg, máy bơm oxy trợ thở cho phổi thu nạp và hoạt động khoảng 80-85%, chỉ số thở do phổi tự thở thay đổi từ khoảng 0.1-0.5, con số này đối với đông y cũng có giá trị chẩn đoán liên quan đến chức năng hoạt động của thận.
Bác sĩ đang có mặt tại chỗ chờ người nhà có thẩm quyền đến để thuyết phục người thân cho rút thở vì không còn hy vọng, bệnh nhân bị hôn mê sâu vừa bị tai nạn té ngã không giải phẫu kịp lúc để lấy máu bầm trong não, huyết bầm đã tràn vào đầy óc, lại vừa bị hôn mê do thuốc chích chống co giật, đến ngày hôm nay đã 6 ngày, tôi thấy một khuôn nhựa đúc đặt sau gáy chống đỡ đầu sọ và gáy, nơi bị tổn thương, kèm theo mảnh giấy lưu ý ‘’không được đụng chạm thay đổi vị thế của đầu’’. Tôi nghe người nhà trả lời với bác sĩ là không đồng ý rút ống thở, các ông không còn cách chữa thì cho chúng tôi chữa theo cách cổ truyền của á đông.. người nhà chỉ vào tôi và nói : đây là thầy massage khí công..Bác sĩ cũng miễn cưỡng đồng ý cho phép làm gì thì làm, nhưng không được đụng đến bộ đầu. Người nhà nghĩ rằng bệnh ở đầu chắc phải chữa ở trên đầu, bây giờ không cho đụng làm sao mà chữa, có vẻ hơi thất vọng nhìn tôi. Nhưng may mắn, nguyên tắc của đông y, bệnh ở đầu chữa ở chân, bệnh ở chân chữa ở đầu, nên tôi nói không sao. Miệng tuy nói vậy, nhưng nhìn chỗ nào trên cơ thể cũng đầy dây nhợ, ống dây dẫn thuốc, dây nhựa song song với ống chân để truyền nước tiểu ra ngoài, ống dẫn tiểu khô không có nước tiểu, bệnh nhân đang bị bí tiểu.
Tôi kiểm tra xem não còn hoạt động không, tình trạng hoạt động bao nhiêu phần trăm là do phản xạ mạnh hay yếu khi bấm huyệt thông máu não ở huyệt Chí âm, góc móng ngoài ngón chân út. Vừa bấm, bệnh nhân nhúc nhích ngón chân và có phản xạ sang chân bên kia, tôi lại bấm huyệt Chí âm bên chân kia, não truyền ra một phản xạ sang chân bên đối nghịch. Tôi lại bấm tiếp tục và mạnh hơn lần trước, bệnh nhân có phản ứng cử động co gối lên, đó là dấu hiệu tốt, việc thứ hai phải làm là huyết áp đang tăng khiến sung huyết não, phải giảm áp lực huyết cho thoát ra ngoài bằng cách bấm nặn máu ra các đầu ngón tay, trong trường hợp máu không ra phải cần đến kim châm mà y tá thường dùng mỗi lần để đo lượng đường-huyết trong bệnh tiểu đường. May qúa, khi bấm nặn máu, máu ra từ mầu đỏ đậm đặc sang đỏ tươi đủ 10 đầu ngón tay và ngón chân. Tôi nói với người nhà trường hợp này có thể cưú được, trên khuôn mặt cô em gái bệnh nhân sáng lên mừng rỡ, cô gọi y tá báo tin mừng, y tá cũng mừng, vì 6 ngày qua không thấy có dấu hiệu hồi sinh, cô báo cho bác sĩ, bác sĩ đến xem rồi nói : cũng như cũ thôi . Cô em thất vọng nói với tôi như an ủi tôi : Thôi, họ nói gì kệ họ, mình chữa theo cách của mình. Chúng tôi cởi áo khoác của bệnh viện, rửa tay sát trùng rồi ra ngoài phòng đợi, cô báo tin cho những người thân trong gia đình đang hồi hộp chờ tin tức sau khi tôi chữa.
Tối hôm sau tôi đến chữa lần thứ hai, vừa bước vào phòng đã nghe tiếng tụng kinh phát ra âm thanh nhỏ, từ máy cassette bỏ túi để trên bàn cạnh giường. Tôi thử kích thích lại huyệt tỉnh não thấy không có phản ứng, bấm nặn máu 10 đầu ngón tay chân ra máu mà cũng không có phản ứng, thân nhiệt xuống, tay chân ấm, các chỉ số theo dõi sự sống cũng như hôm trước, hơi khá hơn, áp huyết xuống, chỉ số thở không thay đổi, mặt bệnh nhân thấy bình thản hơn hôm qua, đó là dấu hiệu tốt, nhưng tôi tự hỏi tại sao lại không có phản ứng? Mặc dù sự sống chết tùy thuộc số mạng và nghiệp báo của mỗi người, nhưng còn nước còn tát là một hy vọng cuối cùng của bệnh nhân và những người thân trông cậy vào khả năng của thầy thuốc. Trong trường hợp này, tôi nghĩ, đến lý thuyết đông y nói về sự cấu tạo thần, là một trong 3 yếu tố chữa bệnh tinh-khí-thần đúng vào trường hợp này.
Thần trong ngũ hành, thì phế tàng thể phách, gan tàng thể hồn, tâm tàng thể thần, tỳ tàng thể ý, thận tàng thể chí.. Thần là một ý niệm vô hình chỉ huy ngũ tạng hoạt động.
Chỉ huy cho phổi thở để duy trì thân xác sống là thể phách, nếu một bệnh nhân hôn mê sâu trong một thời gian dài như ngủ, lay gọi không biết, ngắt nhéo không phản ứng gân cơ, hay phản ứng bằng sắc mặt nhăn nhó, mặc dù sự tuần hoàn tim mạch bình thường, chúng ta gọi là người thực vật. Về siêu hình học, khi một thai nhi vừa sinh ra, thể phách đến trước để duy trì sự sống, thể hồn đến sau. Khi cơ thể bị va chạm mạnh hay sắp chết thì thể hồn lìa xác trước, thể phách rời bỏ lại thân xác ra đi cuối cùng, vì thế mà có nhiều trường hợp phổi đang thở, tự nhiên ngừng thở mà chúng ta tìm không ra lý do, mặc dù có dùng đến máy xung điện để kích thích.
Gan tàng thể hồn, về tâm linh là tri giác, về vật chất theo đông y, gan chỉ huy hệ thống ống máu, gân mạch, mao quản, những sợi thần kinh chạy khắp cơ thể để cảm nhận được những va chạm tiếp xúc qua da để biết nóng lạnh, biết ngứa, biết đau, biết phản ứng ưa ghét, như vuốt ve thì để yên, khi làm đau thì tạo ra phản xạ vận động chống đỡ. Nhưng hệ thống thần kinh của gan làm việc được hữu hiệu phải nhờ thể phách giúp phổi hoạt động mạnh thúc đẩy hô hấp tạo lực đẩy khí huyết tuần hoàn đầy đủ.
Tri giác của hồn khi nhận được một tín hiệu giao cảm, muốn tạo được phản xạ phải nhờ trung gian là thể ý tạo ra những cử động. Cử động có hai loại, loại phản xạ vô tình tự nhiên không có tri giác của hồn và không có sự tham dự của ý, còn sự cử động có sự tham dự của của cả hai, như chăm chú thực tập để học hỏi một động tác nào cho đúng hay chính xác như lái xe, cầm đũa ăn cơm..Bất cứ một cử động nào của cơ thể, siêu hình học gọi là thể vía. Về châm cứu học, có từ thời Ông tổ châm cứu Tần việt Nhân hiệu là Biển Thước, soạn ra quyển Nạn kinh để bổ sung và giải thích rõ sự vận hành 12 kinh mạch và 8 kỳ kinh, trên kinh có nhiều huyệt không những để chữa được những bệnh về khí huyết mà còn để chữa được những bệnh liên quan đến thần, cụ thể là điều chỉnh phục hồi được bảy thể tâm linh: thể xác, thể thần, thể hồn, thể phách, thể vía, thể ý, thể chí, (thể ý là thể hạ trí ,theo tiêu chuẩn khoa học là sự hoạt động tối đa 10% tế bào não như trong các bộ đầu của các nhà bác học, còn thể chí là thể thượng trí mà người bình thường trong thế gian không có, theo khoa học là sự phát triển của một phần trong 90% tế bào não còn lại mà khoa học chưa biết, để phát huy những khả năng siêu trí huyền diệu, chỉ có được do tập thiền định), cho nên có những huyệt được đặt tên mang ý nghĩa quan trọng như thần môn, thần đình, thần đường, thần đạo, thần khuyết, thần phòng, thần tàng, hồn môn, ý xá, linh đài, chí âm, chí dương, mệnh môn, não hộ, hộ phách.. và để lại kinh nghiệm chỉ cho chúng ta, là những người ở thế hệ sau biết dùng huyệt nào để khai mở kích thích cho thần, hồn, phách, vía, ý, chí, phục hồi để chữa những bệnh mà tây y gọi là tâm thần.
Khi quan sát một người bệnh đang hôn mê, phân loại cấp độ nặng nhẹ, có 7 trường hợp theo đông y :
a-Trường hợp 1 : Nặng nhất là người bất động chỉ còn thể phách ở lại với thể xác, nghĩa là chỉ còn hơi thở.
b-Trường hợp 2 : Đụng vào người còn phản ứng cử động là còn thể vía và thể phách ở lại với thể xác. Thần của vía tập trung ở gáy, khi một người té ngã hay bị đánh đụng mạnh sau gáy sẽ mất cử động, viá sẽ rời cơ thể như một bóng ảnh mờ xuất ra ngoài, khi cử động và mở mắt được là vía còn.
c-Trường hợp 3 : Bấm vào da thịt biết đau tạo ra phản ứng hay nhăn nhó, tức là còn tri giác là còn thể hồn, thể vía, và thể phách ở lại với thể xác.
Ban ngày hồn xuất ra nơi mắt, nhìn và thu thập sự việc để học hỏi. Ban đêm một phần hồn trở về gan chỉ huy gan làm nhiệm vụ của gan, một phần gọi là du hồn ra ngoài thân xác để học hỏi trong thế giới vô hình ở cõi trung giới, đó là những giấc mơ, có thể nhớ lại những chuyện xảy ra trong tiền kiếp, có thể là sự việc sắp xảy ra trong tương lai xa hoặc tương lai gần, những chuyện xảy ra trong mơ mà khi tỉnh còn nhớ rõ không bỏ sót một chi tiết nào, đó mới chính là du hồn, người có khả năng thiền định thì du hồn cũng ra khỏi thân xác, chứ không cần phải xuất hồn trong lúc ngủ, vì thế trong dân gian thường nói ba hồn bẩy vía. Bẩy vía chỉ huy cử động của 7 cơ quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khẩu, ý. Khi người bị hôn mê, du hồn ở ngoài thân xác, hồn là tri giác rất khôn, nó thấy chúng ta, nhưng chúng ta không thấy nó. Khi chúng ta lay gọi thân xác và nói chuyện, nó biết nhìn, nghe và hiểu những gì xảy ra chung quanh thân nó, một phần hồn còn trong thân xác biểu lộ cảm xúc rơi nước mắt. Nếu thân xác không bị hủy hoại du hồn mới nhập vào, nếu không nó sẽ bỏ xác ra đi.
d-Trường hợp 4 : Khi mắt mở, chân tay cử động là vía đã hoạt động được một phần chứ chưa đầy đủ như người bình thường, khi người bệnh nhìn những người thân chung quanh một cách đờ đẫn là chưa có thể thần, khi tỉnh táo hoàn toàn là thần sắc đầy đủ, nhưng chưa nhớ lại được những sự việc gì đã xảy ra.
e-Trường hợp 5 : Khi nhớ lại được sự việc xảy ra, và hiểu biết mọi việc giống như lúc chưa bị bệnh là trí đã được phục hồi là thể trí hạ trí đã trở lại với thể xác. Sau khi coma tỉnh lại, không phải ai cũng được may mắn còn thể trí. Thể trí là những ký ức trong bộ nhớ ghi lại nhiều điều đã học hỏi, đã làm và những kinh nghiện trong qúa khứ bị mất sạch, còn thể trí từ hiện tại mới học hỏi được sẽ tích lũy dần những kinh nghiệm như lúc bắt đầu mới học.
f-Trường hợp 6 : Là người hoàn toàn bình phục như một phép lạ, cơn bệnh nguy hiểm qua đi như một giấc mơ, khi tỉnh như ngủ mới dậy, thể trí còn đầy đủ. Trí nhớ qúa khứ không hề bị mất.
g-Trường hợp 7 : Trong hôn mê, du hồn ra ngoài, có may mắn học hỏi thêm những điều mới lạ trong cõi trung giới, khi trở về với thể xác, tỉnh táo khỏe mạnh bình thường, thể trí qúa khứ còn đầy đủ, nhưng là thể phàm trí ( hạ trí ), thêm vào đó, họ có thêm thể siêu trí ( thượng trí ), ngoài khả năng của người bình thường và họ tự nhiên có ý chí đem ra thực hiện những điều đã học hỏi được ở cõi trung giới để truyền bá giúp đỡ người khác, đó là thể chí, thí dụ như một người đã đạt được những cảnh giới thiền nay muốn chỉ lại cho những người khác . Đó là thể chứa lý tưởng theo đuổi của một con người để tiến hóa, tạo ra một nguyên khí mới tàng trữ năng lượng mới ở thận, giúp con người có thêm sức mạnh, trí thông minh, trẻ lại và tăng tuổi thọ để có đủ thời gian thực hiện lý tưởng ấy.
Tóm lại, đa số những người bị hôn mê sâu, khi tỉnh dậy trở thành tàn tật một phần thể viá như đi đứng, ăn, nói, cử động không hoàn toàn, một phần thể hồn bị tổn thương mất tri giác, một phần thể trí không phục hồi, nhưng có những người may mắn, sau tai nạn, tỉnh dậy phần thể trí vẫn trở lại bình thường như khi chưa bệnh.
Tôi nhìn bệnh nhân, đánh giá tình trạng bệnh của anh đang ở giai đoạn nào, tôi chợt hiểu du hồn đang nghe tiếng tụng kinh từ máy cassette.
Trong trường hợp này có 4 tình huống xảy ra :
Trường hợp 1 : Nếu trường hợp thể hồn còn vương vấn ham muốn ở lại thế gian vật chất, cho dù có tàn tật hay không, thì thể hồn vẫn lảng vảng bên cạnh thể xác, ai đến thăm, nói chuyện gì nó đều hiểu biết, nhưng không phát biểu được, và chưa thể nhập vào thể xác khi thể xác còn tổn thương, nó chờ khi nào có sự chữa trị làm cho thể phách thể vía khỏe mạnh, đầy đủ, tức là theo tiêu chuẩn tây y, các thông số hồi sinh như điện phế đồ đo nhịp thở, điện tâm đồ đo nhịp tim mạch, áp huyết, điện não đồ, thận đồ trở lại bình thường, qua cơn nguy hiểm, chỉ chờ bệnh nhân tỉnh, nghĩa là thể vía thể thần được phục hồi, thì đúng lúc đó thể hồn nhập vào là tỉnh hẳn.
Trường hợp 2 : Nếu các thông số hồi sinh không có, hồn còn vất vưởng chưa muốn rời thân xác, vẫn biết có người thân đến thăm, họ chỉ biểu lộ được một phần của vía ở mắt, nước mắt trào ra, nhưng có lay gọi không thấy tỉnh, trường hợp này sự cứu chữa vô ích, cần hướng dẫn tâm linh cho phần hồn rời thể xác được thanh thoát nhẹ nhàng.
Ngược lại, tác động trên huyệt thấy có phản xạ thể vía, một phần thể hồn, và điều chỉnh bằng huyệt có thể làm thay đổi thông số hồi sinh thì có thể chữa cho bệnh nhân tỉnh lại được.
Trường hợp 3 : Nếu các thông số hồi sinh trở lại bình thường, trừ điện não đồ không hoàn toàn, hồn cũng không thể nhập xác, bệnh nhân thân xác khỏe mạnh bình thường, nhưng như ngủ say từ năm này đến năm khác, trừ khi trong cõi trung giới họ may mắn học hỏi được những khả năng siêu trí rồi trở về nhập vào thể xác, lúc đó điện não đồ trở thành bình thường, nhưng rất hiếm.
Trường hợp 4 : Nếu trường hợp thể hồn trong thời gian qúa khứ có ý tưởng chán sống ở thế gian vật chất, thì nhân cơ hội này thể hồn bỏ lại thể xác không vương vấn. Nếu lúc đó thể hồn được hướng dẫn tâm linh, nghe được những lời cầu nguyện của tôn giáo như nghe kinh tụng, nghe lời giảng của linh mục.. mà ngộ được thế gian là giả tạo, họ sẽ về với Chúa hay theo Phật.. lúc đó thể phách ra đi cuối cùng tan thành mây khói, thể xác sẽ theo thời gian thối rữa để rồi thân tứ đại từ cát bụi trở về cát bụi.
Trường hợp này cũng áp dụng cho những người lớn tuổi già yếu, cơ thể suy nhược, vì lý do nào đó bị hôn mê, nếu có chữa tỉnh thì 7 thể không toàn vẹn, khi tỉnh rồi thì thời gian trong quãng đời còn lại chỉ có ý nghĩa đang tồn tại chứ không phải đang sống, người nhà vẫn phải hầu hạ phục vụ cực nhọc mệt mỏi cho một thể xác bệnh hoạn, vừa khổ cho những người thân, vừa khổ cho bệnh nhân không được giải thoát, lúc đó nên cho nghe kinh giảng, giúp thân tâm thanh tịnh chờ siêu thoát là giải pháp tốt nhất cho kẻ ở ngườI đi. Cho nên những bạn già của tôi thường dặn tôi là khi họ có mệnh hệ nào, con cháu có mời tới cứu chữa thì đừng cứu để cho họ đi luôn trong giấc ngủ cuối cùng của cuộc đời một cách thanh thản.
Bệnh nhân mà tôi hiện đang cứu chữa ở vào cả hai trường hợp một và bốn, nửa muốn sống, nửa nghe kinh lại muốn ra đi, thành ra thể hồn do dự, lúc hồn vào thì tỉnh, hồn ra thì mê. Tôi hỏi lại người thân, muốn giúp bệnh nhân chọn đường đi nào. Nếu muốn giúp bệnh nhân đi được thanh thản thì để cho họ nghe kinh hướng dẫn phần tâm linh. Nếu muốn trở lại thế gian nhiều bất trắc rủi ro cho phần đời còn lại thì cứ chữa theo tục ngữ còn nước còn tát, số mệnh theo may rủi. Người nhà bằng lòng, tắt băng tụng kinh, thay vào đó, tôi cho bệnh nhân nghe băng thu tiếng nói của người thân nội dung gợi nhớ những kỷ niệm trong những ngày vừa qua, tiếng nói của anh em, con cháu thân thuộc, hoặc tiếng ca nhạc kịch cải lương để sát vào tai, mục đích đánh thức bộ não thường xuyên làm tỉnh thần kinh, đánh thức thể vía ở tai, khi đó sử dụng huyệt Chí âm giúp máu lưu thông, tỉnh não giúp thể thần hồi phục, tim mạch áp huyết ổn định, dùng huyệt Phục lưu làn tan máu bầm trong não, máu bầm trong não được tống ra ngoài cơ thể bằng đường mũi miệng và đường tiểu, tác động thể vía cho mắt mở ra bằng huyệt Tam âm giao, tác động thể phách cho hơi thở mạnh bình thường bằng huyệt Vân môn, Trung Phủ, tác động huyệt Trung quản kích thích hấp thụ, tiêu hóa hoạt động tốt bình thường, thay đổi băng nghe, bằng cách cho nghe các bản tin tức thời sự để phục hồi ký ức đã có trong qúa khứ không bị mất, tiếng nói vào tai vừa đánh thức bộ não, vừa phục hồi chức năng thận, theo đông y, thận khí khai khiếu ra tai, thận hư thì tai điếc, thận mạnh thì ý chí cầu sinh mạnh khiến bộ não phục hồi, nếu không, khi tỉnh lại, ký ức như một tờ giấy trắng không còn một chữ nào để nhớ, lúc đó phát âm cũng khó khăn.
Cứ tiếp tục mỗi ngày dùng huyệt tác động phục hồi 6 thể tâm linh trên cơ thể, anh đã phục hồi nhanh trong khoảng thời gian 4 tuần lễ, và sau 3 tháng anh đã trở lại đời sống bình thường không tàn tật.. (xem bài cảm tạ của gia đình N.C.L.)
Trong trường hợp cấp cứu ở một bệnh viện khác, bệnh nhân là một thanh niên bị hôn mê sâu, bác sĩ chê không còn cách chữa, đề nghị người nhà quyết định rút ống trợ thở và chích morphine giúp bệnh nhân ra đi nhẹ nhàng không đau đớn. Đối với người thân là một mất mát to lớn bất ngờ không dễ chấp nhận theo quan niệm của tây phương, dù sao còn nước còn tát, gia đình và bạn bè bàn luận rằng có nghe báo chí đăng tải các bài viết về cách chữa bệnh bằng khí công, hãy thử liên lạc với hội khí công ở Montréal nhờ thầy khí công đến cứu mạng được không, mọi người bảo không mất mát gì, cứ thử xem sao may ra có cơ hội cứu sống được. Một thành viên khác theo quan niệm tây phương, cho rằng tây y bó tay không chữa được thì đông y khí công còn có thể làm được gì, cô không bằng lòng. Thể hồn bệnh nhân nghe được, nước mắt đọng trên khóe mắt. Thế mà không hiểu tại sao tự nhiên sáng sớm hôm sau, người phản đối lại thay đổi ý kiến, đã gọi điện thoại cho người chị bằng lòng đồng ý để cho thầy khí công đến chữa và hối thúc phải mời cho bằng được thầy đến ngay. Gia đình hỏi tại sao lại có thái độ thay đổi khác với ý chống đối ngày hôm qua. Cô trả lời một cách sợ hãi : Hồn ảnh về nói với em, ảnh muốn sống, hãy cứu ảnh. Hình ảnh của anh lảng vảng quanh giường và năn nỉ hoài với em. Đó chính là du hồn ra khỏi thân xác đi gặp những người thân khác để cầu cứu, anh đã đi quanh giường của người em trai, nhìn nó để cầu cứu, trong ba đêm liên tiếp người em trai kể với tôi rằng vẫn thấy hình ảnh người anh đi quanh giường suốt đêm làm cậu sợ qúa không ngủ được. Sau khi được cứu, người em không còn thấy hồn người anh xuất hiện nữa. Thế là anh được cứu sống bằng phương pháp khí công chữa bệnh. Có những trường hợp du hồn may mắn gặp được những đấng hiển linh như đức Mẹ, Phật Quan âm..cứu chữa trong cõi trung giới, một cõi vô hình ngoài thế gian vật chất, tự nhiên tỉnh lại khỏe mạnh, chúng ta thường gọi là phép lạ. (xem bài cam tạ của gia đình G. L.)
Một trường hợp khác, bệnh nhân là người tây phương đang trong coma ở một bệnh viện, nằm bất động trên giường, nửa mảnh sọ đầu đã mổ lấy ra hẳn lúc làm phẫu thuật cấp cứu khi đầu bị chấn thương, sau hai tuần không thấy có dấu hiệu hồi sinh, cơ thể còn ấm. Các bác sĩ quyết định khuyên người thân bằng lòng cho chích morphine giúp bệnh nhân ra đi không đau đớn. Thân nhân không bằng lòng. Gia đình chia hai phe, phe theo quyết định của tây phương đồng ý với cách giải quyết của bác sĩ, người chồng và bạn bè của bệnh nhân biết qua khả năng của khí công chữa bệnh, có ý muốn nhờ hội khí công giúp. Hai phe không đồng thuận, họ nhờ cách giải quyết của một bà tiên tri. Bà ta cho biết 3 điều, trong đó hai điều đúng 100%, điều thứ 3 chưa xảy ra thì do họ tự quyết định .
Điều thứ nhất, bà nói : Tôi nghe tên bệnh nhân có âm thanh là Olette, qủa thật là tên của bệnh nhân. Điều thứ hai : Tôi thấy ở một góc đường lúc 8 giờ sáng, bệnh nhân ngồi trong xe hơi bị đụng chấn tnuơng sọ não, đúng như vậy. Điều thứ ba : Hồn bệnh nhân đang đứng cạnh giường, bà ta phân vân không muốn nhập vào xác, bà đã nghe các bác sĩ nói không chữa được, bà không muốn nhập vào xác trong trường hợp thân thể tàn phế, bà nguyện thân thể phải lành lặn hoàn toàn như cũ thì bà nhập vào, nếu không có thể chữa khỏi hoàn toàn như thế bà sẽ ra đi.
Điều thứ ba này khiến gia đình phân vân, phe chống đối cũng không dám quyết định, cuối cùng họ nhờ đến khí công. Khi bà vừa được bấm vào huyệt tỉnh não, bà tỉnh ngay, mắt thì mở như người ngủ mới tỉnh, tay thì gạt bàn tay thầy thuốc không cho đụng vào mặt mình, miệng thì la to phản đối Oh ! No ! Oh ! No ! Bà tỉnh hoàn toàn, đi đứng cử động khỏe mạnh, nhưng bộ não như người bị chạm mát thần kinh, ai hỏi, ai đến, ai đụng, ai nói bất cứ điều gì, bà chỉ có một câu nói duy nhất Oh, No ! Oh ! No Các bác sĩ đến khám kiểm tra tổng quát, xác nhận sự sống đã hồi phục, bác sĩ giải phẫu gắn trả lại nữa mảnh sọ cho bà và bà được chuyển đến nơi khác để chữa tâm thần.
Người chồng theo phương pháp hướng dẫn cách chữa bằng khí công phục hồi các thể tâm linh trong cơ thể, mỗi ngày ông gợi nhớ cho bà, và ghi chú sự tiến bộ mỗi ngày của bà, ông khoe với tôi, hôm nay vợ tôi nói được 3 từ mới, dần dần 6 từ, 10 từ, lên đến 170 từ khác nhau, tôi bảo cho bà nghe nhạc và dạy cho bà hát theo những bản nhạc quen thuộc ngày xưa bà thích, kể lại những kỷ niệm cũ, đưa bà xem những ảnh cũ, đặt câu hỏi cho bà nhắc đến những kỷ niệm ấy, bà nhớ và bà nói được nhiều lắm, không còn có thể đếm được là bao nhiêu từ nữa.
Hai tuần sau tôi đến thăm bà, ông chồng nhắc bà:
-Kìa Maitre Do, người chữa bệnh cho em đến kìa, em có nhớ không ?
-Oui !
-Em chào ổng đi.
-Bonjour ! Comment ça va, et vous ?
Chồng bà cho biết bà đã nhớ lại nhiều lắm, ông hỏi tôi là bà muốn ông kể cho bà nghe những gì xảy đến cho bà trong tai nạn vừa qua, vậy có nên kể hay không? Tôi trả lời có, nhưng đơn giản và xem như là một rủi ro nhẹ không trầm trọng để bà yên tâm, trong lòng bà sẽ vứt bỏ được mối lo lắng thắc mắc thì bệnh sẽ mau hồi phục.
Cũng trên lầu 9 tại bệnh viện này có một thanh niên trẻ khoảng dưới 30 tuổi, bị một người say đánh té ngã chấn thương sọ não hôn mê bất tỉnh, bác sĩ cho mổ sọ lấy máu bầm ra ngay và đã khâu lại hộp sọ, nhưng hơn một tuần không thấy có dấu hiệu hồi sinh, người sưng phù. Người anh cho mời tôi đến chữa.
Tôi dùng huyệt tỉnh não, thông máu ứ trong sọ não, bệnh nhân có phản xạ nhúc nhích chân tay, tôi gọi :
-Hùng ơi ! Mở mắt ra, có chị đến thăm này.
Người anh thì nói :
-A Hùng à ! Có thầy Ngọc đến cứu nị !
Tôi gọi : Hùng ! Mở mắt ra. Cậu ta nhướng mắt lên và hé mở.
Khi cậu ta không còn nghe thấy tiếng ai nói nữa, và tôi ngưng tay không chữa do yêu cầu của người chị, chị bắt đầu tâm sự với em, giọng nói của chị nhỏ qúa, tôi có đem máy thu loại bỏ túi để cho chị nói vào băng thu khoảng 5 phút, tôi đặt ống nghe vào tai cậu và mở lại cho cậu nghe, mọi người chứng kiến đều nhìn thấy cậu cảm động nước mắt chảy dài xuống má, cô thấm nước mắt cho cậu. Sau đó cô nói với tôi, sợ em cô có tỉnh lại cũng bị tàn tật khổ cho nó suốt đời, cô muốn em cô ra đi. Mọi người tôn trọng ý kiến của cô lặng lẽ ra khỏi phòng, cô bắt đầu tụng kinh và đi quanh giường của cậu, mặt cậu dịu lại, mọi người bùi ngùi trước sự quyết định của cô.
Mỗi lần tôi đến bệnh viện chữa cho những người khác, tôi cũng ghé qua phòng của cậu để quan sát sự diễn tiến của 7 thể tâm linh, người chị vừa đi quanh giường tụng kinh, vưà khóc thút thít, mắt của cậu đã mở nhưng không có thần, hai ba tuần sau tôi không hiểu cậu đã ra đi về với Phật hay được chích morphine để du hồn rời bỏ xác lang thang trong cõi trung giới ngụp lặn trong kiếp luân hồi.
Thư cảm tạ
Xin cảm tạ Thầy :
Con, ca sĩ G.L. xin đại diện gia đình và Phở Linh, cảm ơn Thầy Đỗ đức Ngọc đã cứu sống em con là Đ. N. L. trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh.
Ngày 21 tháng 5 năm 2005, L. đã bị stroke và ngã qụy trên sàn nhà vào lúc 9 giờ sáng. Được đưa vào bệnh viện ngay sau đó, nhưng một ngày sau bệnh viện gọi gia đình vào và thông báo là không thể chữa trị gì được vì một bên óc đã bị hủy hoại.
Cả gia đình G.L. rất nghẹn ngào khi nghe biết tin này, nhất là sau khi nghe bác sĩ cho biết là phải rút ống cấp cứu vì đã hết phương cứu chữa. May mắn là vào cái lúc đau đớn tận cùng đó đã có được phép lạ ! Qua sự giới thiệu của một người quen, G.L. liên lạc được với Thầy Đỗ đức Ngọc, và Thầy đã từ Montreal xuống Toronto chữa trị kịp thời cho L. bằng phương pháp khí công day bấm huyệt. L. đã tỉnh lại, tim đập bình thường ngay sau đó, và hiện thời L. đã bình phục trở lại.
G.L. cũng được biết Thầy Ngọc đã từng chữa trị cho nhiều người bị bệnh trong trường hợp ngặt nghèo. Hầu hết các bệnh nhân này đã bị bệnh viện từ chối vì đã hết thuốc chữa!!!
G.L. xin được giới thiệu Thầy Đỗ đức Ngọc và phương pháp trị liệi khí công vô cùng hiệu qủa của Thầy đến tất cả qúy vị xa gần để chúng ta có thể tránh được những quyết định đáng tiếc và những ân hận về sau.!
G.L. và gia đình cầu xin ơn trên phù hộ cho Thầy luôn khỏe mạnh để tiếp tục công việc truyền bá Khí Công Trị Liệu, cứu giúp những bệnh nhân cần sự chữa trị của Thầy. Nhân dịp này G.L. cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ cứu chữa của Thầy Tư và Chị Mai (đệ tử của Thầy) trong thời gian Thầy vắng mặt.
( trích Báo Thời Mới số 156 ngày 6-7-2005)
Cải tử hồi sinh
Anh NCL. đã được Thầy Đỗ đức Ngọc, người sáng lập Phương pháp Khí Công Y Đạo Việt Nam cứu sống sau khi bị ngã vỡ đầu rồi hôn mê bất tỉnh (coma).
Tôi là ĐhP. em rể, được ủy nhiệm của gia đình cảm tạ Thầy Ngọc và viết đôi lời tóm tắt những diễn tiến của việc cứu chữa :
Ngày 15 tháng 2 năm 2005, được các con của Anh L. cho biết từ hôm trước cho đến trưa ngày trên, không thấy anh về, cả nhà điện thoại khắp nơi mới rõ anh ấy đang nằm tại khu urgence của Hôpital Général de Montréal. Tới nơi, sau khi có kết qủa scan, bác sĩ chuyên khoa não cho hay bệnh tình qúa nặng không thể cứu chữa được nữa, tạm đưa bệnh nhân lên lầu 9, khu soins intensifs chỉ trong một thời gian ngắn cho vui lòng thân nhân yêu cầu, và lúc đó người nhà chỉ còn cầu mong sao có một sự nhiệm mầu xảy ra. Xin đa tạ Trời Phật giúp đỡ, đúng lúc đó, gia đình chợt nhớ tới Thầy Ngọc, vội liên lạc và được Thầy chấp nhận.
Tôi đưa đón Thầy Ngọc và chứng kiến tường tận cách chữa bệnh của Thầy. Hôm đầu, trên đường đến nhà thương, Thầy nói trước với tôi, Thầy sử dụng hai huyệt ở hai ngón chân út, nếu hai chân và toàn thân cử động thì bệnh nhân có cơ hội hồi phục. Đúng như lời nói, bệnh nhân phản ứng y hệt như dự đoán. Những ngày sau đó Thầy tiếp tục day nhiều điểm khác để giúp cơ thể tan máu bầm, đả thông kinh mạch hoạt động bình thường, day bấm những huyệt cho bệnh nhân mở mắt, kích thích những huyệt tim mạch và tăng cường hơi thở giúp bệnh nhân thở mạnh hơn không cần đến máy thở, giúp tiêu hóa tốt, những điểm phục hồi thần trí, tỉnh não, và những điểm kích thích cho tứ chi cử động linh hoạt có lợi cho việc đi đứng sau này được bình thường không bị di chứng tê liệt.
Sự săn sóc tận tình, bất vụ lợi của Thầy Ngọc, mỗi ngày một lần, có ngày sáng Thầy đến, sau đó Thầy ra sân bay đi Toronto truyền dạy khí công cho lớp trên ấy, chiều về Thầy lại vào chăm sóc bệnh nhân không hề biết mệt mỏi, nét mặt lúc nào cũng vui vẻ, ửng hồng vì nội lực sung mãn. Nhờ vậy, bệnh nhân hồi phục nhanh chóng, được rời khỏi khu soins intensifs ở lầu 9 lên lầu 14 dành cho những người bị chấn thương não bộ đã tỉnh táo lại.
Ba tuần sau, bệnh nhân rời Hôpital Général de Montréal để qua viện phục hồi tập đi. Trong thời gian khoảng hai tháng từ ngày nhập viện đến ngày 17 tháng 4 năm 2005, bệnh nhân trí óc đã phục hồi tỉnh táo như xưa, sức khỏe mỗi ngày một khả quan hơn hoàn toàn nhờ khí công của Thây Ngọc.
Thành qủa thật bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của gia đình, bạn bè, và những người thân trong gia đình, nên chúng tôi, dù biết không có gì có thể so sánh và đền đáp công ơn to lớn Cải tử hồi sinh ấy, chỉ còn biết đồng lòng kính gửI tới Thầy Đỗ đức Ngọc và gia đình Thầy lời cảm tạ và lòng biết ơn chân thành và sâu xa nhất của chúng tôi.
Chúng tôi cũng xin vô cùng cám ơn sự giúp đỡ, săn sóc, thăm hỏi, hổ trợ tinh thần lẫn vật chất của bạn bè, của các bệnh viện, của toàn thể y sĩ và nhân viên, đặc biệt nhất là nhóm thiện nguyện viên như Cô Ngọc, Cô Mai y tá, Cô Mai Phương, anh Hiếu, anh Long, Thanh, Đức, và Đan. đã luân phiên đến chăm sóc cho Anh NCL.
Toàn thể anh chị em gia đình N.C. cảm tạ.