Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

Quan niệm của Đông Y-Khí Công về cách chữa bệnh:

Trong cơ thể đã có sẵn dược liệu, nếu biết cách pha chế thuốc bằng huyệt hay bằng hơi thở theo quy luật âm dương ngũ hành.

1-Quan niệm thiên nhân đồng nhất thể :

A-Sự khí hóa của trời đất :

Sự tương tác giữa Dương (mặt trời) và âm (nước biển) làm nước bốc hơi lên trời thành mây, mây thành mưa trả lại nước cho biển lâp thành một vòng khí hóa, theo thời gian sinh, trưởng, hóa, thâu, tàng, lập đi lập lại mà vạn vật được sinh ra. Những vật thể được sinh ra là những vật chất thể đặc tạm gọi là chất thổ. Thể lỏng ở sông ngòi ao hồ gọi là chất thủy. Ánh nắng, tia sáng mặt trời là chất hỏa. Mầm mống sinh ra cây cỏ là chất mộc, nhờ chất mộc như các rừng cây tạo ra sinh thái trao đổi không khí, tạo ra môi trường chuyển hóa âm dương thủy hỏa giữa sức nóng của mặt trời và cái lạnh của nước biển mới sinh ra muôn vật, nên đông y gọi là chất phong. Những cặn bã, chất thải từ cây cỏ hay cát bụi gọi là chất thổ. Trong thổ tích chứa những chất ấy lâu ngày cả hàng ngàn năm sinh ra quặng mỏ gọi là chất kim.

B-Sự khí hóa trong con người :

Nói tổng quát, trong vũ trụ bao gồm 5 chất, thì trong cơ thể con người cũng có đủ 5 chất : chất thổ là thân xác, xương cốt da thịt…, chất thủy là máu và các dịch chất có trong con người, chất kim là các chất kim loại có trong con người như Cu, Fe, Al,… được sinh ra bởi sự trao đổi oxy từ phổi tạo ra sự chuyển hóa từ nguồn thức ăn …chất hỏa là hơi ấm từ sự tuần hoàn của tim mạch, chất mộc là phong tạo ra những biến động trong cơ thể để trao đổi chất.
Có một đìểm hơi khác, phong khí do từ can mộc sinh ra, khác với dưỡng khí Oxy từ hơi thở của phổi đem vào khí khô ráo gọi là táo khí giúp cơ thể vừa sinh hóa vừa chuyển hóa.

C-Mầm mống gây bệnh giữa thiên nhiên và con người :

Ảnh hưởng khí hậu, thời tiết của thiên nhiên nếu bất bình thường làm xáo trộn môi trường sinh thái, làm sự sống con người bị ảnh hưởng theo, mới sinh bệnh tật. Như vậy bệnh tật có muôn hình vạn trạng ở mỗi thời mỗi khác, mỗi khu vực mỗi khác.

Xưa kia, điều kiện Dương là áng nắng mặt trời trong lành, oxy có chứa nhiều thành phần ion+ nhiều hơn, điều kiện sinh thái không bị ô nhiễm bởi chất thải công nghệ, con người và con vật được sinh ra thời đó khỏe mạnh to lớn hơn, ít bệnh tật hơn bây giờ.

Ngày nay, điều kiện dương rất ít, do những nhà cao tầng che lấp, oxy bị ô nhiễm nhiều khí độc nơi khu công nghiệp, nguồn nước cũng bị ô nhiễm nhiều hóa chất độc hại, con người và các vật được sinh ra ở thời đại này sức khỏe sẽ không bằng được những người ở những thế kỷ trước.

Trong tương lai, tầng khí quyển mỏng dần, tia phóng xạ có trong ánh nắng và khí ozone, CO2, ammoniac, khí amiante, lưu huỳnh… lẫn trong không khí, thành phần ion+ giảm dần trong oxy và nguồn thức ăn công nghiệp chứa nhiều hóa chất sẽ gây nguy hại cho sức khỏe con người.

2-Những căn bệnh nan y mới lạ sẽ phát sinh mà y học chưa có cách chữa :

Căn cứ vào 5 thể tổng hợp trong cơ thể con người, và căn cứ vào học thuyết âm dương trong đông y , thì bệnh của 5 thể sẽ khác nhau và có cách đối chứng trị liệu khác nhau :

Riêng môn học ĐÔNG Y KHÍ CÔNG chia thang bậc bệnh và cách chữa như sau :


1-Chất thổ (âm dương), 2-Chất thủy (âm dương),3-Chất khí (âm dương), 4-Chất Điện (âm dương), 5-Chất Quang (âm dương).


Giải thích :

Chất Thổ : là thân xác, tạo vật. Chất thủy : nước, máu, dịch chất. Chất khí : hơi thở. Chất điện : nhiệt năng, thần kinh. Chất quang : ánh sánh, trí tuệ, hiểu biết.

Thí dụ :
Bệnh do chất thổ :
Khi âm dương ở điều kiện tốt 100+/100-, các tạo vật sinh ra chứa nhìều năng lượng.
Khi âm dương mất quân bình 80+/100-, hoặc 100+/80- các tạo vật sinh ra năng lượng dương hay âm ít hơn năng lượng âm dương khi chúng ta ăn vào cơ thể. Nhưng nếu các tạo vật không ăn kịp, tự nó sẽ biến đổi thành côn trùng sâu bọ (một loại vi trùng thô thấy được bằng mắt do âm hay do dương sinh hóa và chuyển hóa làm ra).
Khi đất đai mầu mỡ cằn cỗi, các tạo vật sinh ra thiếu âm dương như 40/40 chúng ta ăn không thấy bổ khỏe bằng 100/100, nhưng không có bệnh.
Khi tạo vật sinh ra trong điều kiện xấu 30/40, chúng ta ăn vào không tốt như thời xưa, nhưng ngược lại, khi ăn không kịp, tự chúng sinh hóa chuyển hoá thành những loại sâu bọ nhỏ li ti.
Khi tạo vật sinh ra trong điều kiện đất đai trồng trọt bằng hóa chất, âm dương phát triển không tự nhiên, sự chệnh lệch âm dương tự nó sinh hóa chuyển hoá thành những vi trùng, nhỏ hơn vi trùng.
Nếu ô nhiễm môi trường hóa chất âm dương chênh lệch, khi ăn vào phá hại máu nhiễm độc tự sinh hoá chuyển hoá thành virus gây ung thư.
Nếu tạo vật sinh ra trong môi trường khí ô nhiễm âm dương mất quân bình, tạo vật sinh ra vào phần khí của cơ thể tự sinh hóa chuyển hoá thành microvirus gây những bệnh lạ, phá hại máu, hại da thịt, hai xương cốt, gây những bệnh đau nhức lạ lùng mà tìm không ra bệnh.
Nếu trong môi trường sóng từ trường, sóng điện chạy dọc ngang khắp không gian, thì những tạo vật sinh ra bất quân bình âm dương tự sinh hóa chuyển hoá sinh những bệnh do supervirus mà chúng ta không có thể nào khám phá ra, ngay cả những trường hợp loãng xương mục xương, ung thư máu hoặc các loại ung thư kỳ lạ khác cũng có thể do mang trong người cellulaire , làm việc với các máy phát sóng từ trường..…
Loại bệnh cao hơn do các tia sáng, hồng ngoại, tử ngoại, laser, alpha, beta, ozone…. nhiễm vào nước uống, vào cây trái hoa mầu khi trồng trọt, khi ăn vào một thời gian lâu tích lũy đủ số lượng độc hại tạm gọi là supermicrovirus sẽ gây ra bệnh thần kinh…

3-Nguyên tắc chữa theo Đông y khí công :


A-Thể Thổ bệnh :

Là cơ sở vật chất như xương cốt da thịt…, khi bị bệnh là do mất quân bình âm dương trong thổ qua 3 yếu tố tinh-khí-thần. Đối với chất Thổ, Dương là gầy, âm là mập. Người không gầy không mập là âm dương quân bình.

Tinh
: Là thức ăn đem vào cơ thể cũng có âm dương và có cả ngũ hành để phù hợp với tạng phủ khi chữa bệnh.. Khi cơ thể gầy, phải ăn chất âm nhiều, cơ thể mập cần phải ăn chất dương nhiều để lập lại quân bình.
Khi cơ thể ăn một chất có âm có dương, nhưng khi nhai và ăn vào cơ thể gọi là thời kỳ sinh hóa, mà không chuyển hóa thì gọi là thổ âm, thí dụ khi mệt lả vì đói, ăn một tô phở, rồi đi ngủ, tô phở được chuyển hóa thành năng lượng gọi là thổ dương, sáng hôm sau tỉnh giấc, cơ thể được phục hồi sức khỏe.
Khí : Là hơi thở, là vận động cũng có âm có dương, ngũ hành. Khi nhiều
âm là mập, cần phải vận động hít thở khí dương nhiều để chuyển hóa thành năng lượng dương. Khi gầy ốm phải giảm những công việc nặng nhọc mất sức làm tiêu hao khí lực mà cần phải dưỡng âm.
Khi ăn đúng chất âm dương ngũ hành mà cơ thể cần là sinh hóa thổ âm, nhưng thiếu khí nên không được chuyển hóa thành thổ dương, thì bệnh thuộc khí của hơi thở.

Thần
: Cũng có âm dương ngũ hành. Dương là lạc quan vui vẻ, yêu đời. Âm là chán nản bi quan yếm thế.Tình cảm hỷ, nộ, aì, ố, khủng, bất thường sẽ làm biến đổi sinh tâm bệnh thần kinh.
Khi thổ bệnh như té gẫy tay chân, y học hiện đại có thể mổ xẻ, cắt ráp thay thế, nhưng khi thổ đau nhức không phải nguyên nhân phát sinh từ thổ, mà do những nguyên nhân do thủy, do khí, do điện, do quang…thì phải có những cách chữa tương ứng với mỗi trường hợp.

Theo đông y khí công
: Nếu thổ bệnh, dùng thổ âm dương chữa để bù đắp cho thổ âm dương chỗ thừa chỗ thiếu, và phải bổ sung năng lượng cao hơn thổ là thủy để giúp nó chuyển hóa nhanh hơn, chứ tự nó không đủ mạnh để chuyển hoá, bệnh sẽ chữa mau khỏi hơn.
Thí dụ khi bị cảm sốt : Phân tích theo đông y khí công. Cơ thể đau nhức thuộc thổ âm hoặc dương, uống thuốc bằng những chất bột như Tylenol hay trụ sinh cũng là thuốc bột thuộc thổ, sẽ không khỏi nhanh bằng thuốc nước như thuốc bắc, sirop uống hay thuốc nước chích thẳng vào máu là chất thủy như Eucaliptine, pénicéline..

B-Thể thủy bệnh :

Là bệnh do máu, do nước, tuyến hạch, dịch chất…cũng phân biệt theo âm dương ngũ hành, và cũng phải biết điều chỉnh âm dương ngũ hành.
Ngoài việc dùng thuốc viên thuộc thổ để bảo vệ thổ, thuốc nước thuộc thủy như truyền máu, nước biển để điều chỉnh bệnh của thủy, nhưng khi thủy bệnh không có thể sinh hoá chuyển hóa chất thủy âm ra dương, rồi lại sinh hoá thủy dương ra khí âm, khí sẽ mất quân bình âm dương rồi bị bệnh nữa. Cho nên thủy bệnh làm thổ bệnh, cơ thể gầy ốm, cũng làm khí bệnh, thiếu oxy làm mất hồng cầu, mất máu, thiếu khí thở, ngộp thở. Trong cách chữa của tây y, bệnh của thủy gây biến chứng ngộp thở thiếu khí sẽ cho bệnh nhân thở bằng bình oxy. Nhưng oxy chỉ mới là một loại khí dương, trong khi cơ thể có thể chỉ cần khí âm là hydro. Có thể khoa học phải nghiên cứu thêm đến những loại khí dùng trong chữa bệnh khí như nitro, hydro, helium. Ether, oxy tăng cường thêm ion+….
Trong đông y cũng đã biết cách dùng khí bằng những phương pháp xông hơi đặc biệt phù hợp với mỗi căn bệnh khác nhau như xông lá tràm, lá bưởi, lá ngò, húng, chanh, tía tô, kinh giới, lá bạc hà, xông dấm, phèn chua, nghệ, gừng…
Tôi đã chữa một nữ bệnh nhân bị bệnh do phong (thuộc khí ) đã làm tổn hại đến thần kinh (thuộc thể điện), mí mắt bị chớp nháy liên tục không ngừng, 1 giây chớp nháy 1-2 lần, không thể nhìn ai được. Đã đi nhiều Thầy, uống nhiều thuốc tây ta. Tôi dặn bệnh nhân nấu 2 bó tía tô, 2 bó kinh giới, cho xông hơi vào mặt và mắt, khi nước xông nguội thì lấy rửa mặt, mỗi ngày 2 lần. Tuần sau cô đến khen hay, mắt hết chớp giật.

C-Thể khí bệnh :

Đến bệnh thuộc thủy đối với tây y cũng là khó . Khi bệnh thuộc khí, cho máy trợ thở oxy mà phổi không tự thở được phần trăm nào, là quyết định rút ống để bệnh nhân chết oan uổng.
Thật ra, oxy ấy vẫn vào cơ thể để giữ hồng cầu, vẫn tuần hoàn, nhưng đối với đông y khí công, chỉ chữa trên thể khí âm dương không đủ để sinh hóa chuyển hóa ra điện âm là nuôi dưỡng các sợi thần kinh và không đủ chuyển hóa điện âm ra điện dương làm cho thần kinh hoạt động trở lại để nuôi não và phục hồi chức năng làm bệnh nhân tỉnh lại.
Đối với đông y khí công chỉ cần sử dụng những huyệt khai thông khí của tim, phổi , thận, gan, não thuộc thể khí, và phải chữa trên thể thần cao hơn để giúp thể khí chuyển hoá, lúc đó phải dùng đến đại huyệt Đan điền Thần.

D-Thể điện bệnh :

Thể thần bị bệnh có loại nhẹ loại nặng cách chữa khác nhau :
Theo nguyên tắc khí công, từ thể điện thì không lệ thuộc vào ngũ hành nhiều như bệnh của các thể khác, mà chỉ phụ thuộc vào âm dương.
Thể điện là bệnh từ các sợi dây thần kinh tay chân, thần kinh ngoại biên, thần kinh chức năng, thần kinh giao cảm, đối giao cảm, thần kinh phản xạ, thần kinh gân cơ, thần kinh cột sống, thần kinh trung ương, thần kinh não bộ, thần kinh da, thần kinh tạng phủ cơ sở, chức năng….
-Nếu đau nhức tay chân có nhiều nguyên nhân như tổn thương thể thổ như té, gẫy, đứt tay chân, tây y mổ, cưa, bó ráp, thay thế. Đông y cũng bó, thuốc đắp lành da, sinh gân cơ, dùng huyệt giảm đau hay thuốc giảm đau.
Nếu đau chứ không tổn thương, đông y có câu :Thống bất thông, thông bất thống (đau thì do khí hay huyết bị bế tắc không thông, phải làm cho khí huyết lưu thông bằng huyệt hay bằng thuốc là hết đau.). Nếu đau trong tạng phủ cũng vậy. Đó là sở trường của môn đông y châm cứu, có thể gây tê làm giảm đau được tây y công nhận.
-Nếu đau mà tìm không ra nguyên nhân chính là nhiễm bệnh từ từ lâu dài do ảnh hưởng những giao thoa của điện từ trường nơi làm việc, trong vùng cư ngụ gần nhưng nơi phát sóng từ trường mạnh gây hư hỏng thần kinh. Cách chữa ngoài việc cắt nối thay thế các sợi thần kinh bị tổn thương nặng, cần phải dùng cấp cao hơn là quang để giúp nó chuyển hoá từ điện âm ra dương, điện dương thành quang âm, cho nên các bệnh trên hiện nay phải dùng đến tia hồng ngoại, laser, một lãnh vực còn khiêm nhường trong y học, tuy nhiên nếu sử dụng tia laser không chính xác, đúng nhu cầu, chính tia laser cũng đã làm tổn thương thực thể, nguy hại , vì liều lượng điều trị không quân bình âm dương (không định liệu được) sẽ tự sinh hóa chuyển hóa ra loại supermicrovirus tạo ra một bệnh mới lạ khác của thời đại.

E-Thể quang bệnh :

Là bệnh mà y học hiện đại gọi là hoang tưởng, người có nhiều linh hồn, hay những bệnh nhân sau khi bị hôn mê (coma) tỉnh lại mất trí nhớ . Nếu chữa theo tây y cần phải chữa bằng những tia ánh sáng khác nhau để phục hồi trí não, bộ nhớ. Hoặc chữa bằng thôi miên, hay chữa bằng khoa trị liệu tâm lý thần kinh để phục hồi trí nhớ. Đông y khí công phải chữa trên thể hồn và thể trí bằng thần lực hoặc huyền lực.
-Vì thế có những bệnh nan y, đông tây y bó tay, thay vì chờ chết, chuyển sang cách chữa thiền, khí công, yoga, mật tông Tây tạng, .. trí óc được mở mang, ánh sáng trí tuệ cho con người một đức tin mới, giáo lý Phật giáo thường nói : Vạn pháp do tâm sinh, vạn pháp do tâm diệt, theo Chúa Kito : Tâm bình thế giới bình. Lúc đó sống chết không còn sợ hãi, có sinh có diệt, thân sẽ tan rã tứ đại giả hợp sẽ trở về tứ đại, cát bụi trở về cát bụi. Theo quy luật âm dương, cực âm sinh dương, trong tử lộ có sinh lộ, nhiều bệnh nhân đã tự nhiên khỏi bệnh, người đời gọi là một phép lạ. Đó cũng không ngoài lý lẽ âm dương :sinh, trưởng hóa thâu, tàng để nối tiếp cuộc đời khác, vì con người có sự sống bất diệt. Chỉ có loài cây cỏ có sức sống, mà không có sự sống, nên sức sống hết thì mới theo quy luật thành, trụ, hoại, diệt.

4-Tập thở khí công y đạo để tự chữa bệnh cho mình và cho người khác:

Tập khí công đến chỗ thành đạt thì những bệnh thuộc thể thổ, thể thủy có thể tự chữa được mà không cần dùng thuốc bổ sung cho thổ, cho thủy. Tập đến chỗ cao hơn nữa khí lực dư thừa sẽ bổ sung được cho những chất cao hơn..

Một người bình thường đi từ dưới đi lên, từ thể thổ do ăn uống chuyển sang thể thủy sinh huyết, rồi thể khí sinh khí (sức lực), thể điện sinh điện (thần kinh vững mạnh) điện sinh quang tăng sự hiểu biết trí tuệ.

Còn các nhà khí công, các nhà tu thiền, tập thở thiền, ít cần đến nhu cầu ăn uống để bổ cho thể thổ và thủy, chỉ cần thu nạp khí âm dương trời đất trong lành (vùng biển, vùng núi, trong hang động) luyện khí thành khí âm giúp cơ thể vật chất hồng hào khỏe mạnh, chuyển âm thành dương khí, dương khí dư thừa sinh điện âm, chuyển hóa thành điện dương, sinh hoá thành quang âm chuyển hoá thành quang dương. Cuối cùng âm dương hợp nhất thu hút được năng lượng vũ trụ để sử dụng trở thành những người có khả năng siêu việt .

Môn học Khí công Y Đạo không có tham vọng như thế, nhưng trình độ tập hít thở cuả khí công dùng để chữa bệnh có thể thấy được qua 1 huyệt chữa giống nhau cho một bệnh giống nhau.

Người không tập khí công bấm vào huyệt đó phải dùng sức mạnh của mình để bấm gọi là sức lực, kém kết quả hơn một thầy khí công bấm huyệt do nội lực mà có gọi là khí lực, tập nhiều năm đạt đến trình độ điện, bàn tay có điện từ trường khi bấm vào huyệt có kết qủa nhanh hơn gọi là thần lực, cao hơn nữa là cấp quang, biết phóng đi và nhận về những sóng từ trường năng lượng thông tin ngoài vũ trụ, khi bấm vào huyệt có kết qủa ngay tức thời gọi là huyền lực.

Các nhà tu đắc đạo, có thần thông là có huyền lực, do đó mà khi một đứa trẻ mới sinh ra may mắn được các nhà chân tu đắc đạo, đặt tay lên đỉnh đầu để khai ngộ (truyền tâm ấn hay thọ ký) sau này sẽ thông minh, thành đạt hơn người thường, đó là một hình thức của quang năng.