Ngoài công dụng Máy đo áp huyết của tây y dùng để đo áp huyết bên cánh tay trái của bệnh nhân để xem bệnh nhân có bị cao áp huyết hay không . Tiêu chuẩn từ 110/70 đến 140/90mmHg là tốt không bị bệnh cao áp huyết . Nếu trên 140/90 mmHg gọi là áp huyết cao, dưới 110/70 mmHg gọi là áp huyết thấp .
Như vậy đối với cách khám bệnh của đông y, sẽ gọi trường hợp áp huyết cao là thực chứng, và áp huyết thấp là hư chứng . Nhưng nếu chứng minh được những bệnh hư bệnh thực khác của đông y bằng máy đo áp huyết thì tây y có thể chấp nhận dễ dàng hơn .
Vì dựa trên nguyên nhân gây ra mọi bệnh tật cho con người theo đông y dù nhẹ hay nặng cũng đều do khí huyết lưu thông bất bình thường, không điều hòa ,khi thực khi hư, khi âm nhiều âm ít, dương nhiều dương ít mới tạo ra cái đau bên trong thuộc lý hay bên ngoài cơ thể thuộc biểu .
Nếu dùng máy đo áp huyết trong chẩn bệnh sẽ chính xác hơn cách bắt mạch của đông y, giúp cho các thầy thuốc đông y không bị sai lầm trong chẩn bệnh, chỉ cần dựa vào những kết qủa đo được để định bệnh đúng sẽ có cách chữa đúng và nhanh nhất, có hiệu qủa nhất trong điều trị bằng thuốc, bằng huyệt hay bằng khí công .
Cho nên Môn Đông Y Khí Công đã lợi dụng máy đo áp huyết để tiến hành những cuộc thử nghiệm xa hơn nữa trong việc tìm bệnh mất quân bình âm-dương, bệnh hư, bệnh thực của đông y bằng máy đo áp huyết thay cho hệ thống bắt mạch phức tạp của đông y qúa khó, quá trừu tượng mà tây y không thể nào chấp nhận được .
Dưới đây là một phần trích dẫn tài liệu những cuộc thử nghiệm đã có kết qủa :
1- Một nữ bệnh nhân ngoại quốc, lớn tuổi to con, vào buổi trưa, bước vào phòng vừa gặp tôi, bà đã ôm ngay cái đầu của bà và chỉ kịp nói có một câu : Tôi chắc chết,Cái đầu tôi …, rồi ngã người nằm trên bàn khám . Tôi nghĩ có lẽ bà chờ lâu ở ngoài phòng đợi nên bị mệt . Bà không nói thêm gì cả mà khóc, hỏi bệnh thì bà không nói chỉ ôm đầu lắc qua lắc lại, nếu trong trường hợp cấp cứu như vậy mà mạch rối loạn làm sao đông y có thể định bệnh được .
Tôi dùng máy đo áp huyết, bên tay trái chỉ 186/110mmHg ,bên tay phải chỉ 136/98 mmHg , tôi đưa máy cho bà xem kết qủa ,bà sợ qúa, thều thao hỏi sao lạ vậy, sáng nay tôi có uống thuốc mà ?
Nhờ con số chênh lệch nhiều như thế, tôi tìm ra nguyên nhân gây ra bệnh bị tắc động mạch, tim bị chèn ép, khó thở, cao áp huyết thứ phát không phải do nguyên phát bởi bệnh tim mà do hậu qủa của chứng vị thực, có nghiã là ăn no đầy bụng, không tiêu hóa, thượng vị căng tức chèn ép tim nên mới cao áp huyết phía bên bao tử .Lý luận của đông y là Mẹ thực tả con, tâm thực tả vị .
Cách chữa bằng khí công :
Bôi dầu vaseline lên bụng từ xương ức đến rốn, Dùng 2 ngón tay trỏ đè vuốt từ trên xuống 18 lần , mỗi lần vuốt xuống bảo bệnh nhân thở ra, mỗi lần vuốt, nghe trong bụng có tiếng nước chảy róc rách từ màng ngực dưới tim và từ bao tử và gan xuống rốn, bụng đang căng đã mềm lại từ từ, bà đã thở được, sắc mặt đã hồng hào tươi tỉnh . Dùng máy đo áp huyết kiểm chứng lại bên tay trái xuống còn 152/96 mmHg . Vuốt lại lân thứ hai như lần trước, rồi kiểm chứng lại, áp huyết xuống còn 132/86mmHg , đo lại bên tay phải áp huyết xuống 128/84 mmHg. Mặc dù bệnh nhân đã được cứu khỏe lại, nhưng áp huyết hai bên không đều, âm dương còn mất quân bình sẽ gây ra một bệnh khác. Tôi hướng dẫn bà tập thở bụng để chuyển hóa vị khí vào huyệt Khí Hải tăng cuờng nội lực bảo tồn nguyên khí và cũng để điều chỉnh áp huyết hai bên được quân bình . Sau 5 phút tập thở bụng dưới, đo áp huyết để kiểm chứng lại ,tay trái chỉ 131/85mmHg, tay phải 130/82 mmHg
2- Một nam bệnh nhân ngoại quốc, to con, bụng bự, Ông khai bệnh : Đau từ lưng xuống chân trái, cổ chân sưng, đã đi physiotherapy, đi châm cứu không bớt, đi chụp hình, bác sĩ nói là bệnh thần kinh tọa do 3 đốt sống lưng bị chèn ép phải mổ, ông không thích mổ, có người giới thiệu lại tôi..
Tôi bảo ông nằm úp. Tôi dùng máy đo áp huyết đo áp lực đông mạch ở cổ chân nơi huyệt Tam âm giao phải, máy đo chỉ 175/93 mmHg mạch đập 90, ông tưởng tôi khám lầm chân, ông bảo chân bên trái mới đau, tôi đo ở huyệt Tam âm giao bên chân trái, máy đo chỉ 225/108 mmHg mạch đập 93 .Tôi đưa cho ông xem và cho ông biết đó là lý do tại sao ông bị đau ở chân trái . Theo đông y bệnh này là thực chứng, tắc nghẽn do ống mạch dẫn máu bị chèn ép ở háng. Ông bảo nếu áp huyết cao như thế tôi chết chứ còn gì . Tôi giải thích, nếu ông đo áp lực của động mạch tim ở tay có số cao như thế sẽ bị đứt mạch máu, nhưng đây là áp lực mạch ở chân chỉ làm đau sưng chân thôi . Ông hỏi phải làm sao cho số đo xuống ?
Theo đông y chứng bệnh này do âm thực dương hư trên lý thuyết, trên thực tế phía trước bụng là âm trương nở giãn ra, bụng to đầy nước, ruột trương nở đè vào đông mạch háng chặn đường tuần hoàn của khí huyết ,phía sau lưng là dương , dương có tính co rút, dương hư không co rút được lại bị âm kéo giãn ra về phía dưới nên tạo các đĩa đệm ép dính lại sinh đau lưng . Quy luật chữa là đối chứng trị liệu áp dụng trên 2 mặt âm dương . Âm bệnh lấy dương chữa, dương bệnh lấy âm chữa .
Cách chữa của khí công :
Thì hít vào là dương để làm co gân cơ, thở ra làm giảm đau và giãn gân cơ .Cho bệnh nhân nằm úp để chữa bụng (âm), hai đầu gối dang rộng như con ếch, dùng một tay cầm cổ chân bên phải, bảo bệnh nhân hít vào thì kéo nhẹ bàn chân gập gối vào 90 độ, khi bệnh nhân thở ra thì đè từ từ gót chân của bệnh nhân về hướng mông của bệnh nhân, hơi thở hít vào lần thứ hai, lại mở chân bệnh nhân ra 90 độ, chờ khi bệnh nhân thở ra lại đẩy gót chân bệnh nhân vào phía mông, làm nhiều lần cho đến khi gót chân bệnh nhân chạm được vào mông mà không đau là đầu gối và thần kinh tọa hết đau, ép chân vào nhiều lần theo hơi thở làn giãn các đốt sống lưng và đĩa đệm tự sắp xếp lại thẳng một cách tự nhiên, và cũng làm gân bụng co lại để cho bụng khỏi bị xệ ruột . Khi ép chân bên phải hết đau, tiếp tục ép chân bên trái giống như bên phải. Hoặc có thể làm xen kẽ chân này 10 lần đến chân kia 10 lần, đổi qua đổi lại cho đến khi nào đầu gối hết cứng và hai gót chân chạm được vào mông dễ dàng là hết bệnh . Trong trường hợp gập chân vào bị đau đầu gối thì dùng ngón tay cái đè vào giữa nhượng chân (huyệt Uỷ Trung) trong khi tay kia gập đầu gối vào từ từ sẽ hết đau đầu gối.
Bệnh nhân nằm ngửa, dùng âm để chữa dương tức là 2 bàn tay bệnh nhân nắm một đầu gối, khi hít vào thì kéo đầu gối ép vào sát bụng, thở ra thì duỗi thẳng chân ra, đổi sang chân kia, khi hít vào hai bàn tay nắm đầu gối kéo ép sát vào bụng, thở ra duỗi thẳng chân ra. Tập 30 lần như vậy từ chân này sang chân kia. Trong lúc bệnh nhân tập, mình nắm bàn tay mình lại để chen vào giữa háng ở mỗi chân để khi bệnh nhân kéo ép đầu gối vào, nó sẽ có lợi làm ép ruột, bụng, bao tử phía trái ,làm ép gan phía phải giúp cho các cơ quan này chuyển động trao đổi khí huyết , và động tác này làm căng giãn thăn lưng và thần kinh cột sống . Để ý hỏi bệnh nhân trong khi kéo gối như thế còn bị đau lưng hay hết đau .
Động tác kéo gối hít vào bụng là dùng dương trong âm để chữa dương ở lưng, mà cũng là dung dương để chữa âm trước bụng . Ngược lại nằm úp là dùng âm trong dương để chữa dương sau lưng và cũng chữa âm phía trước bụng .
Sau đó đo lại bằng máy đo áp huyết ,hai bên chân lọt vào tiêu chuẩn 140-150/80-90mmHg. Tiêu chuẩn theo kinh nghiệm của khí công ở tay từ 110-140/70-90mmHg và ở chân cao hơn ở tay 10mmHg là người khỏe mạnh .Nếu chân có số lớn hơn tiêu chuẩn là bệnh thực do tắc nghẽn, dưới tiêu chuẩn là bệnh hư ,chân yếu không đủ khí huyết để tuần hoàn .
Khi chữa xong thì bệnh khỏi ngay, nhưng để ngăn ngừa bệnh không tái phát, phải dặn bệnh nhân 2 điều :|
-Không được uống nhiều nước với số lượng lớn một lần vượt qúa sự đàn hồi của nhu động ruột sẽ làm xệ liệt ruột là nguyên nhân làm tắc nghẽn tuần hoàn khí huyết.
-Phải tập bài Nạp khí trung tiêu để giúp chuyển hóa khí huyết và làm săn cứng gân bụng , tập kéo đầu gối vào sát bụng để chữa bụng và lưng mỗi ngày.
3- Một nữ bệnh nhân gầy ốm. bị bệnh thiên đầu thống (migrain) và mất ngủ kinh niên từ 5 năm, ăn ít ,chậm tiêu . Dùng máy đo áp huyết có số đo bên tay trái 105/65mmHg nhịp tim đập 80 , bên tay phải 99/60mmHg nhịp tim đập 85 .
Kết qủa của số đo cho biết bệnh nhân áp huyết thấp không đủ khí huyết tuần hoàn khắp cơ thể, bên phải thấp hơn cho biết nửa đầu bên phải không đủ máu dẫn lên đầu, bệnh thuộc hư chứng . Khác với đau đầu thực chứng, sờ vào đầu có cảm giác đau, gân máu căng trong bệnh tăng áp huyết , còn thiên đầu thống là đau trong đầu, sờ da đầu bệnh nhân không có cảm giác ,nếu chúng ta dùng 5 ngón tay cào đầu và theo dõi cảm giác của bệnh nhân sẽ thấy có chỗ cào bệnh nhăn mặt, có chỗ không biết gì , đó là vùng bị thiếu máu nuôi não ,sau khoảng 5-10 năm sẽ trở thành khối u gọi là cancer não . Bệnh mất ngủ kinh niên, ăn ít, chậm tiêu đều do hậu qủa của việc thiếu máu não khiến tê liệt chức năng hoạt động của tạng phủ . Nhờ vào kết qủa của máy đo áp huyết ,việc chữa trị chính là đối chứng trị liệu, làm tăng máu não, tăng áp huyết tạm thời để bệnh ngưng không phát triển .
Chữa bằng khí công :
Vuốt bài Chân khí bổ gan ở lưng,(từ Can du lên Phế du, từ Phế du về Can du, từ Can du xuống Thận du, từ Thận du lên Tỳ du, từ Tỳ du lên Tâm du, từ Tâm du về Can du, mỗi đoạn vuốt 9 lần, dung khí sinh huyết), vuốt một đoạn Mạch Nhâm từ mỏm xương ức đến rốn để thông tam tiêu, nằm ngửa Nạp khí trung tiêu để kích thích Ngũ tạng khí, Tập thở Đan điền Tinh , Động công 7 bài đầu : Cào đầu, cào gáy, chà gáy, vuốt gáy, vuốt cổ, chà tai, xoa mặt . Bài Cúi ngửa 4 nhịp để đưa máu thông lên não. Khi vuốt thông tam tiêu , mặc dù bệnh nhân gầy ốm, nhưng vẫn có tiếng nước chảy ở thượng vị, vùng gan và vùng dưới tim chảy xuống phía rốn ,chứng tỏ có triệu chứng tắc nghẽn do nước, lúc đó bệnh nhân mới khai trước kia có uống nhiều nước nên mới bị bệnh ăn vào bị đầy buồn ói .Sau khi tập xong, đo lại áp huyết 2 bên tay tương đương 101-103/65-68mmHg .Tôi khuyên bệnh nhân nên dùng thêm Thập toàn đại bổ.
Tuần sau tái khám lại, bệnh nhân cho biết ăn ngon ngủ khỏe, hết bệnh nhức đầu, và hằng tuần đã theo khóa tập khí công miễn phí tại lớp.
4- Một nữ bệnh nhân lớn tuổi khai bệnh : Hai vai và hai cổ tay đau, đau cổ, tê tay, tay trái đau nhiều, đau nhói dưới tim, đau lưng, chân mặt đau nhiều , lưỡi đau rát, ăn nóng cay không được.
Dùng máy đo áp huyết đo tay phải chỉ 175/93 mmHg mạch đập 80, tay trái chỉ 186/115mmHg mạch đâp 87. chân phải 196/113 mmHg mạch đập 92, chân trái 182/93 mmHg mạch đập 90 những kết qủa của máy đo phù hợp với những bệnh mà bệnh nhân đã khai đông y gọi là chứng tâm vị thực nhiệt.
Cách Chữa bằng khí công:
Bệnh nhân nằm ngửa, vuốt từ mỏm xương ức đến rốn 6 lần, từ mỏm xương ức dọc theo xương sườn bên trái thuộc bao tử 6 lần, vuốt từ mỏm xương ức dọc theo xương sườn bên phải thuộc gan 6 lần, vuốt từ mỏm xương ức xuống rốn 6 lần, Trong lúc vuốt bệnh nhân nghe được tiếng nước chảy từ lồng ngực, bên gan, bao tử chạy xuống rốn nhiều lần, và bụng trên trước cảm thấy cứng đau tức, sau mềm và hết đau tức. Đo lại áp huyết hai tay đều xuống, vì thông trung tiêu ( bụng trên) là tâm khí được thông nên áp huyết hạ . Tiếp tục vuốt từ rốn xuống bụng dưới đến huyệt Trung cực gần xương mu 18 lần để chuyển hóa thủy giúp hạ hỏa nhiệt, Sau đó bệnh nhân tập kéo đầu gối mỗi bên cho đụng sát vào bao tử và gan để kích thích chức năng chuyển hóa trung tiêu, mỗi bên một lần, kéo 30 lần, khi kéo vào hít vào, khi duỗi chân ra thở ra, rồi đo lại áp huyết, tay trái 134/89mmHg, tay phải 132/89mmHg, chân trái 155/92mmHg, chân phải 150/89mmHg. Trong lúc vuốt, bệnh nhân cuốn lưỡi lên hàm trên, để đầu lưỡi sâu vào bên trong, và thở ra theo lúc vuốt xuống, cuối cùng lưỡi bệnh nhân ra nước miếng, mặt lưỡi có nước trơn, hết bị rát .Dặn bệnh nhân lưu ý không ăn chất cay, nóng sinh nhiệt gây táo bón, và ăn ít một không được ăn qúa no.
5- Một nam bệnh nhân khai bệnh áp huyết cao, thường thường trong khoảng 220/110mmHg đến 188/100mmHg, hay bị chảy máu mũi ra xối xả .
Chữa bằng khí công :
Đã áp dụng 3 cách khác nhau :
Cách một : Nằm ngửa thổi mạnh và dài hơi lên trần nhà 20 hơi, đo lại áp huyết xuống còn 160/95mmHg .
Cách hai : Tiếp tục vuốt huyệt hạ khí trung tiêu, từ mỏm xương ức xuống rốn, và xuống dọc hai bên cạnh sườn, mỗi bên 6 lần dùng huyết chuyển sang khí, rồi đo lại áp huyết xuống còn 155/93mmHg. Khi vuốt từ rốn xuống Trung cực 9 lần, đoạn này bệnh nhân cảm thấy đau nhất do bệnh viêm tuyến tiền liệt, vuốt lại đoạn này khi bệnh nhân cảm thấy hết đau, đo lại áp huyết xuống còn 134/89mmHg .
Bệnh nhân được dặn đắp cao dán Ngô thù du ở nhà để làm hạ áp, và nấu 1 gói kim châm uống 1 ly để chữa bệnh chảy máu cam .
6- Nữ bệnh nhân khoảng 55 tuổi khai bệnh đau nhói tức ở tim phía bên trái . Đo áp huy ết tay trái 164/98mmHg, tay phải 136/89mmHg.
Chữa bằng khí công :
Nằm ngửa cho bệnh nhân đặt hai tay lên Đan điền tinh, bàn tay trái ở dưới, bàn tay phải ở trên, chú ý nằm nghe bụng xẹp mềm xuống theo hơi thở ra, không chú ý đến hơi thở vào, và không được thở vào mạnh và nhiều.
Trong khi bệnh nhân thở ra, vuốt hạ khí trung tiêu từ mỏm xương ức đến rốn 18 lần, dưới tay có cảm giác đi qua nhiều cục cứng dưới bụng, đó là những khối nước bị kết lại ở màng mỡ bụng tam tiêu, đó là nguyên nhân làm khó thở nhói tim. Mỗi lần vuốt theo hơi thở ra, bụng trên mềm dần, nước trong bụng trên từ dưới xương ức chạy xuống dưới rốn nhiều lần.
Bệnh nhân hỏi tôi tại sao lại có những bướu đó .
Tôi hỏi lại : Bà có thường uống nhiều nước mỗi lần không ?
Bà trả lời có .
Tôi hỏi tiếp : Trước kia bà có mập như bây giờ không, bà có ăn nhiều hơn trước không ?
Bà nói trước kia tôi không mập như bây giờ, không hiểu sao dạo này tôi ăn ít lắm tại sao lại mập hơn trước ?
Theo lý thuyết đông y, thủy nhiều phải cắt được hỏa trong bệnh áp huyết cao do tâm hỏa thực . Nhưng bệnh cao áp huyết của bà là do trung tiêu tắc vì bướu nước ứ đọng ở màng mỡ tam tiêu gây ra tắc động mạch tim chứ không do vị thực, nguyên nhân của những bướu nước là do uống dư thừa nước cơ thể không chuyển hóa được, các cơ quan không chấp chứa, chức năng cơ quan bài tiết yếu không loại ra ngoài, nên bị giữ lại ở màng mỡ tam tiêu nơi bụng, tích lũy mỗi ngày một ít trở thành túi nước bị mỡ bao lại .
Sau khi vuốt xong đo lại áp huyết tay trái xuống còn 132/75mmHg nhịp tim đập 69 . Tay phải 134/80mmHg nhịp tim đập 72.
7- Một nữ bệnh nhân ngoại quốc gầy ốm khai có bướu vú trái đau, vai tay trái đau .
Đo áp huyết tay trái 89/49mmHg nhịp tim 63, tay phải 112/70mmHg, nhịp tim 68, tôi cho bà biết thuộc bệnh hư chứng, suy nhược khí huyết không thông, lý do chán đời thở dài lâu năm làm tắc tuyến vú mới sinh ra bướu và áp lực khí không đủ để đẩy máu ra nuôi tay vai nên bị đau. Vừa nghe xong bà khóc và cho biết chồng bà định đòi ly di với bà. Tôi nói nếu bà khóc nữa sẽ trở thành depression, áp huyết càng xuống thấp bướu sẽ to ra và đau nhiều hơn. Bà sợ, hỏi phải làm sao ?
Tôi trả lời bà đừng lo, bà sẽ hết bướu nếu bà nghe lời tôi, rồi tôi hướng dẫn cho bà tập 5 lần bài Nạp khí trung tiêu, sau đó tập nghe hơi thở ở hai tay đặt nơi Đan điền thần lâu 15 phút để làm tăng áp huyết . Đo lại áp huyết tay trái từ 89/49mmHg đã lên đến 118/75mmHg nhịp tim 69, bà mừng qúa. Trong lúc bà tập thở Đan điền thần, tôi dùng ngón tay trái ấn nhẹ vào nơi bướu đau mỗi khi bà thở ra, bà nghe có chất gì từ bướu chạy ra bụng, cứ mỗi lần khí huyết bị ứ đọng trong bướu chảy thoát ra là bướu nhỏ dần, tập đến khi bướu biến mất thì thôi.Bệnh nhân gọi là miracle.
Tôi dặn bà về nhà tập Bài vỗ tay 4 nhịp, Nạp khí trung tiêu, Thở Đan điền thần mỗi ngày 2 lần.
8- Một bệnh nhân trung niên ngoại quốc vừa bước vào phòng, tôi trông thấy bụng dưới ông ta to tròn như một bụng bầu, ông khai bệnh đau lưng và thần kinh tọa bên chân trái .
Tôi bảo ông nằm ngửa, tôi dùng tay đè vào động mạch háng trái của ông , ông kêu đau co dựt chân trái lên , tôi cho ông biết tất cả những bệnh của ông do uống nhiều nước cơ thể không chuyển hóa kịp, thường làm căng cứng nặng ruột chèn ép vào động mạch háng làm tắc khí huyết tuần hoàn nuôi chân ở thế ngồi lâu, và ở thế đi đứng bụng to nặng trì kéo những dây thần kinh sau lưng ép các dây thần kinh đĩa đệm nên bị đau lưng và thần kinh tọa . Nếu ông không tin tôi sẽ đo áp lực khí huyết ở 2 bên cổ chân để kiểm chứng xem máu xuống hai bên chân có bằng nhau không .Sau khi đo kiểm chứng, chân phải không bệnh 149/80mmHg mạch đập 73, chân trái 125/72mmHg mạch đập 70 dưới tiêu chuẩn của khí công từ 140-150/80-90mmHg., lớn hơn tiêu chuẩn là bệnh thực chứng, nhỏ hơn là bệnh hư chứng .
Chữa bằng khí công :
Bệnh nhân nằm ngửa, một tay tôi đè mấy ngón tay vào động mạch háng trái nơi đau, một tay nắm cổ chân bệnh nhân, bảo bệnh nhân hít vào thì mình đẩy chân bệnh nhân chỉ thẳng lên trời, khi thở ra thì bỏ chân xuống, làm 6 lần bên chân đau để thông khí huyết bên chân đau ,rồi làm 6 lần bên chân không đau . Làm hai bên chân để kích thíc sự đàn hồi các dây thần kinh sau lưng .Sau đó, mình dùng nắm tay chèn vào động mạch háng, bảo bệnh nhân đan 2 bàn tay nắm đầu gối kéo vào sát người khi hít vào, buông ra thì thở ra. Cứ làm chân này đến chân kia, đếm từ 1 đến 30 lần, bảo bệnh nhân để ý khi tập có cảm thấy lưng còn đau không .
Bệnh nhân nằm xấp, hai tay xuôi theo thân người, hai gối dang ra như hình con ếch, đầu tiên thử xem chân nào thực chân nào hư, mình cầm cổ chân kéo vào chạm mông xem chân cứng có lực hay mềm nhũn. Chân nào cứng đau ép không chạm được vào mông thì dùng ngón tay cái bấm vào huyệt Ủy trung (nhượng chân phía ngoài), vừa bấm vừa đẩy chân vào từ từ bệnh nhân vừa thở ra theo để làm giảm đau, khi bệnh nhân hít vào thì mở chân ra, khi bệnh nhân thở ra thì ép chân vào, tập từ từ đến bao giờ ép được gót chân chạm mông mà bệnh nhân không còn cảm thấy đau chân, đau đầu gối nữa là đã thông thần kinh toạ ( trong trường hợp này là thần kinh tọa do thực chứng tắc nghẽn, đo áp lực chân sẽ cao hơn tiêu chuẩn) . Trường hợp bệnh hư chứng, thì chân vô lực, đẩy gót chân vào mông mềm nhũn, không đau, nếu đo áp lực chân sẽ dưới tiêu chuẩn, lúc đó không cần bấm huyệt mà cần phải chêm nắm tay mình vào nhượng chân trong khi tay kia ép gót chân vào mông bệnh nhân trong thì thở ra, đến khi nào bệnh nhân cảm thấy đau sẽ có phản ứng chống đau đẩy chân ra không cho ép vào là chân đã có lực, khí huyết đã được dẫn xuống nuôi chân, lúc đó đo lại áp huyết sẽ thấy tăng.
Hướng dẫn bệnh nhân tập động công Bài Cúi ngửa 4 nhịp, Bài Vặn mình 4 nhịp, Bài Dậm chân hát 1,2,3…sau đó bệnh nhân tiếp tục tập ở nhà mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 30 phút .
9- Một nữ bệnh nhân khai yếu thận . Tôi đo áp lực hai cổ chân nơi huyệt Tam âm giao ,bên trái 105/64mmHg mạch 67 ,bên phải 124/63mmHg mạch 63 , đúng là hai thận hoạt động yếu dưới tiêu chuẩn 140-150/80-90mmHg
Chữa bằng khí công :
Nằm ngửa Nạp khí Trung tiêu 5 lần mỗi lần 1 phút, hai bàn tay đặt ở Đan điền tinh bổ thận . Bài kéo đầu gối chêm nắm tay nơi háng. Nằm úp ép gối chêm bàn tay nơi nhượng chân, ép bên này bên kia đếm 30 lần , ép vào hít vào, buông ra thở ra . Khi đo lại áp huyết, chân trái lên 120/63mmHg mạch 58 , chân phải 122/64mmHg mạch 61 . Người có mạch đập thấp không do tập luyện thể dục thể thao hay khí công mà có, chứng tỏ thận khí yếu, cần phải bổ phế nuôi thận . Tập thêm bài Vỗ tay 4 nhịp , Bài cúi ngửa 4 nhịp .
10 - Một nam bệnh nhân lớn tuổi khai bệnh đau gót chân trái.
Đo áp lực hai chân, chân trái 161/126mmHg mạch 74, chân phải 119/76mmHg mạch 67 . Chẩn bệnh, thận khí suy không chuyển hóa chất vôi nên bị vôi hóa trong máu làm tắc nghẽn khí huyết lưu thông bên chân trái .
Chữa bằng khí công :
Nằm ngửa, dung máy đo áp huyết để ở cổ chân trái, dùng bút gắn kim châm thử tiểu đường, click vào 6 tĩnh huyệt chân, không thấy có máu chảy ra , bấm máy đo áp huyết để đo , khi máy ép khí là mượn máy ép cổ chân cho máu đầu ngón chân rịn ra để khai thông kinh mạch nơi tĩnh huyệt .Bấm máy lại lần thứ hai đo áp lực chỉ 122/80mmHg mạch 70 .
Sau đó hướng dẫn tập bài Nằm xấp Ép gối, bài Nằm ngửa Kéo gối có chêm bàn tay, Bài Dậm chân 1,2,3.. để bệnh nhân về nhà tập mỗi ngày 2 lần