Dùng 9 đọt cây óc chó , cho 1/2 ly nước, giã vắt lấy nước.
1 bó lá hẹ tươi chừng 1 nắm tay, cho 1/2 ly nước, giã vắt lấy nước.
Hai ly để riêng, đem phơi sương lúc buổi tối. 12 giờ đêm đem vào, uống từng ly, mỗi ly cách nhau 30 phút, uống ly nào trước cũng được.
Mỗi tuần uống hai đêm liên tiếp, tuần thứ hai cũng uống đúng như 2 ngày tuần trước.
Ở Việt Nam, vùng quê, ngoài bờ rào, bờ ruộng, có một loại cây mọc hoang, người miền Bắc gọi là cây sung dại, người miền Nam gọi là cây ổi dại. Vì trái của nó nhỏ bằng trái trứng cá, hình giống qủa ổi nhỏ mới mọc, nhưng bên trong ruột mền, chứa những hạt nhỏ như ruột qủa sung. Lá của nó có ba loại khác nhau mọc trên cùng một cành, nếu tính theo chiều dài 1 gang tay đo từ trên ngọn xuống khoảng 20cm, gọi là 1 đọt, cùng 1 đọt có 3 loại lá, lá trên cùng là lá ổi, lá giữa to hơn chia hai phần, nửa bên hình lá ổi, nửa bên hình lá đu đủ, lá dưới to hơn nữa là lá đu đủ nhỏ. Bài thuốc này do cố Bác sĩ Lương hoàng Phấn gọi tên nó là cây óc chó, học được từ Tây Tạng, và vị Sư Lạt Ma Y Sĩ thầy dạy của ông khuyên ông phải trở về VN, xuống núi hành đạo bằng chính những loại thuốc cây cỏ qúy chỉ ở VN mới có để cứu chữa cho những người bị bệnh nan y…
Bất ngờ, tôi có một bệnh nhân bị bệnh hở van tim nặng, khoảng 60 tuổi, bà ta người qúa mập, có dấu hiệu hở van tim hiện trên mặt như, phù hai bên má, môi dầy hơn bình thường, môi dưới xệ, hai môi không thể khép kín được, mầu môi và 10 đầu ngón tay bầm tím như nhuộm chàm, mệt mỏi, đi lại khó khăn, làm một tí gì cũng mệt và thở dốc. Đã và đang dùng thuốc tây y, lúc nào cũng phải dùng Coramine để trợ tim, chứ không thể chữa dứt, có nguy cơ chết bất đắc kỳ tử.
Trước kia khi còn ở VN, tôi chưa nghiên cứu thành công về cách chữa bệnh bằng huyệt và bằng khí công, nên tôi đã cầu cứu đến Sư huynh Phấn chỉ dạy cho loại cây cỏ nào có thể chữa được bệnh nan y này mà ông đã học hỏi được rất nhiều từ vị Thầy Tây tạng trong 2 năm tu học nghiên cứu y học từ kinh nghiệm của Thầy ông.
Ông đã chỉ cho tôi nhiều loại cây cỏ tầm thường ở VN nhưng có gía trị qúy báu để chữa những bệnh nan y, và Cây óc chó là một cây qúy, ông chỉ cách dùng và mô tả loại cây này cho tôi đi tìm, và chữa thử nghiệm theo cách của ông.
.
Tôi nói người nhà đi vùng Hóc Môn tìm cây óc chó, họ chặt một cành đem về, tôi bảo họ ngắt lấy 9 đọt (mỗi đọt là 1 gang tay, tính từ ngọn đo xuống) .
Cách uống như lời dặn trên, bệnh nhân khi uống lần thứ nhất, sáng hôm sau tôi đến thấy khuôn mặt nhỏ lại, môi nhỏ lại, hết mầu tím bần, bàn tay cũng hết tím, bệnh nhân ra đón tôi ngoài cửa mừng rỡ, ăn nói to tiếng hơn. Bà ta uống hai lần đã khỏi, bà hỏi tôi có thể uống tiếp tuần thứ hai nữa không, sau khi bắt mạch tim, tôi đồng ý để bà uống tiếp. Sau 4 lần uống, bà đã đi làm trở lại bình thường.
Cây óc chó chỉ ở Việt Nam mới có, chưa biết tên khoa học và thành phần dược tính, nhưng là thuốc kinh nghiệm nhân gian lại truyền từ Tây Tạng, có nghĩa là y học cổ truyền Tây Tạng đã biết áp dụng từ lâu. Xin cảm ơn cố bác sĩ Lương hoàng Phấn.
Sau đây là những tài liệu nghiên cứu và tham khảo về cây óc chó theo tây y và đông y chưa được đầy đủ như cách dùng của Tây tạng, để qúy vị thấy ngành duợc của chúng ta vẫn còn thiếu sót, so với kinh nghiệm xử lý sáng tạo trên lâm sàng.
Hai vị thuốc trên bổ sung cho nhau tạo phản ứng biến thành một hợp chất đặc trị để chữa bệnh nhồi máu cơ tim và hở van tim rất có hiệu qủa.
Công dụng của Cây óc chó loại thứ nhất : Cây to mọc ở rừng.
Phân tích theo tây y :
Tên khoa học Juglans regia L. loại cây lớn mọc ở rừng, tên khác là cây Hồ đào. Theo phân chất nhân và qủa thu tập được ở California, có chứa 14-20% protein, hơn 60% dầu béo như acid palmitic, stearic, oleic, linoleic, những chất còn lại là carbohydrate, chất xơ, chất vô cơ Na 2,7. K 687, Ca 61, Mg 131, Fe 2,35, Cu 0,31. P 510, S 104, Cl 23mg/100g, iode, As,Zn,Co,Mn, Phosphore toàn phần dướI dạng acid phytic, lecithin, nhân có globulin trong chứa 2,18% cystin va,84% tryptophan,. nhiều Vit.C, vỏ và thân chứa nhiều tannin. Công dụng bồi bổ, ức chế virus, kháng khuẩn, an thần, giảm thân nhiệt, chống co thắt cơ trơn.
Phân tích theo đông y :
Cây óc chó có vị ngọt, hơi chát, tính ấm. Vào 2 kinh phế thận để bồi bổ gan thận, mạnh lưng gối, thu liễm phổI, hạ suyễn, cố thận, sáp tinh. Dùng làm thuốc bồi dưỡng cơ thể, trừ ho đờm, lao lực qúa độ sinh ho, hen, suyễn, lưng đau mỏi, chân yếu, làm thuốc dưỡng da, đen tóc, lợi tiểu, trừ trĩ. Lá óc chó làm thuốc mỹ phẩm cho da, làm săn da, sát trùng, khử lọc máu. Dầu óc chó chữa phỏng, lở chàm, nhuộm đen tóc.
Công dụng của Cây óc chó loại thứ hai : Mọc ở đồng bằng
Phân tích theo tây y :
Tên khoa học Ficus hirta Vahl., tên khác là vú chó, vú bò, mọc từng bụI nhỏ ven rừng, bờ ruộng rẫy quanh làng, lá hình đu dủ. Chứa acid hữu cơ, acid amin, các chất triterpen, alkaloid và coumarin., có tác dụng lợi đởm, bình suyễn, nhuận trường. Tây y chưa phân chất kỹ những thành phần và công dụng của cây óc chó này.
Phân tích theo đông y :
Theo tài liệu cổ, chỉ dùng rễ để làm thuốc, rễ có vị ngọt, hơi đắng, tính bình, có tác dụng khử phong thấp mạnh gân cốt, khử ứ tắc, tiêu thủng, sinh tân. Từ xưa Tuệ Tĩnh đã sáng tạo dùng nhựa mủ trắng cây óc chó pha trộn với bột nghệ vàng chế thành viên để chữa bệnh bụng trướng đầy, đại tiện táo kết, còn lá và qủa gĩa pha rượu đắp vết thương bầm tím
Công dụng của lá Hẹ :
Phân tích theo tây y :
Tên khoa học Allium tuberosum Rottl.ex Spreng. Có chứa 4 loại đường fructose, glucose, lactose, sucrose, 20 hợp chất sulfid, ether, odorin, aliin, methylaliin, linalool, protein, chất béo, carbohydrate, chất xơ, tro, caroten, Vit.C, có tác dụng chống u.
Phân tích theo đông y :
Hẹ có vị cay, tính ôn, có tác dụng ôn trung, kiện vị, hành khí, tán ứ, chỉ hãn. Hạt có vị cay, tính ôn, bổ gan thận, tráng dương, cố tinh. Theo phân chất dịch lá hẹ có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với nhiều loại vi khuẩn, diệt roi trùng âm đạo sau 30 phút tiếp xúc, làm giãn nhẹ huyết quản, kích thích tử cung co bóp, gây giảm hồng cầu và huyết sắc tố máu ngoại vi.
Kinh nghiệm dân gian chữa ho hen suyễn, tiêu hóa kém, giun kim, ly amip, mồ hôi trộm. Hạt hẹ chữa đái dầm, đái són, di mộng tinh, đau lưng mỏi gối .
Chống chỉ định :
Người âm hư hỏa vượng không nên dùng.