PHÂN TÍCH THEO TÂY Y – PHÂN TÍCH THEO ĐÔNG Y
A-NGUYÊN NHÂN :
I. Theo quan điểm Tây y
Khám bệnh
Xét nghiệm
Định bệnh
2.Theo quan điểm Đông y
Khám bệnh
Định bệnh
B-CÁCH CHỮA :
1.Theo phương pháp Tây y :
Ba giai đoạn hướng dẫn của Y Tế Thế Giới
2.Theo phương pháp Đông y
Điều chỉnh yếu tố tinh
Điều chỉnh yếu tố khí
Điều chỉnh yếu tố thần
Áp dụng
Điều chỉnh cách ăn uống
C-NHẬN XÉT HAI CÁCH CHỮA :
1.Theo cách chữa của Tây y :
Thời kỳ chưa có máy đo áp huyết
Thời kỳ máy đo áp huyết ra đời
Thời kỳ máy đo cholestérol ra đời
Thời kỳ phát triển khoa tâm lý thần kinh và khoa dinh dưỡng
Những biến chứng của thuốc trị cao áp huyết
Nhận xét cách chữa của Tây y
2.Theo cách chữa của Đông y
Điểm tương đồng
Điểm dị biệt
Thay phần kết luận
A-NGUYÊN NHÂN :
Bệnh cao áp huyết tại sao khó chữa ?
Đó là một câu hỏi còn nhiều thắc mắc nghi ngờ của cả hai giới, bệnh nhân và thầy thuốc. Có thể nói bệnh cao áp huyết còn khó chữa hơn bệnh nghiện ma túy, vì nghiện ma túy là một đam mê tự nguyện, ngày nào đó tỉnh ngộ có thể dứt bỏ mà tánh mạng không bị đe dọa, ngược lại, thuốc trị bệnh cao áp huyết hiện nay dù biết nó không thể trị dứt mà không bệnh nhân nào dám bỏ, phải dùng suốt đời cho đến khi chết, đó là điều nghịch lý đã làm cho ngành y khoa phải khổ tâm tìm tòi, nghiên cứu, phát minh không ngừng nghỉ.
Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân của bệnh cao áp huyết từ đâu đến theo hai quan niệm của Tây y và Đông y hầu tìm ra được phương pháp chữa thích hợp có hiệu qủa.
1-Theo quan điểm Tây y :
Bệnh cao áp huyết là bệnh thuộc tim mạch, có hai nguyên nhân là nguyên phát gây ra bệnh cao áp huyết thường xuyên và nguyên nhân thứ phát gây ra bệnh cao áp huyết bởi ảnh hưởng của một bệnh khác .
Tuy nhiên trên thực tế Tây y cũng đặt ra nhiều nghi vấn và giả thuyết để từ đó mới quyết định xem cần xét ngiệm cái gì để tìm nguyên nhân bệnh.
a- Về Khám Bệnh :
Thầy thuốc có thể nghi nguyên nhân do các loại thuốc khác gây ra bệnh cao áp huyết thứ phát như :
Thuốc ngừa thai, thuốc có chất cam thảo như Malox trị bệnh bao tử, thuốc xịt mũi làm co mạch để chữa bệnh nghẹt mũi, thuốc trị co giật trong bệnh Parkinson, thuốc trị phong thấp khớp, thuốc calcium trị bệnh xương, loại thuốc chữa bệnh trầm cảm I.M.A.O ( Inhibiteurs de Mono-Amine-Oxydase ),thuốc ức chế enzyme monoaminoxydaza, các loại thuốc chữa dépression, thuốc suyễn, Histamine, Sulpirid, lạm dụng Vitamine D bị ngộ độc, lạm dụng thuốc lợi tiểu, thuốc nhuận trường, thuốc adrénaline, corticoĩde, dùng thức ăn có chất men tyramine như rượu, frommage, men bia, nấm, gan gà..
Thầy thuốc phải khám tim, động mạch, đáy mắt, chức năng thận, bàng quang và gửi đi xét nghiệm những gì cần thiết có liên quan đến chẩn đoán, để so sánh những kết qủa với những điều mình nghi ngờ khi chẩn đoán có đúng không, rồi mới quyết định cách chữa.
b- Về xét nghiệm :
Phòng xét nghiệm thường xét nghiệm máu và nước tiểu để biết uré-huyết, glucoza-huyết, acide-uric-huyết, aldostérone-huyết, kali-huyết, lipide-huyết, calci-huyết, natri-huyết, phosphate-huyết, créatinine, ion đồ máu và nước tiểu, protéine-niệu, cặn Addis, vi khuẩn trong nước tiểu, natri-niệu, kali-niệu, định lượng VMA (Vanillyl Mandelic Acide ) trong nước tiểu..
Chụp X-quang ngực xem động mạch, tĩnh mạch bị phình hay hẹp, X-quang đường niệu để tìm ra sự chậm bài tiết, vết tổn thương đường niệu, chụp thận, bàng quang tìm xem thận bị ứ nước hay ứ mủ hay teo thận, sỏi thận, đau nang, phình động mạch thận ( khi nghe có tiếng thổi cạnh rốn ), xét điện tâm đồ, điện não đồ xem có tổn thương não, viêm não, áp lực sọ não hoặc do nguyên nhân tâm lý lo âu xung động mãnh liệt (raptus anxieux )đã làm cho biểu đồ dao động bất bình thường. Chụp đầu tìm khối u như u nguyên bào thần kinh giao cảm, u hạch thần kinh, u nguyên bào thận, u mạch tế bào quanh mao mạch thận hoặc do nội tiết tăng năng tuyến giáp, tăng năng vỏ thượng thận, hay suy thận, hay tắc mạch máu não...
c- Về định bệnh :
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, việc khám phá và tìm bệnh, tìm nguyên nhân của một căn bệnh càng ngày càng nhanh chóng và dễ dàng hơn xưa, và với kinh nghiệm của thầy thuốc dựa vào kết qủa xét nghiệm, chúng ta có thể phân biệt được thế nào là cao áp huyết mãn tính, cao áp huyết do thuốc, cao áp huyết cấp tính kịch phát, cao áp huyết tâm thu, cao áp huyết tâm trương, cao áp huyết khi mang thai, cao áp huyết với giảm kali-huyết, cao áp huyết do dư calci trong máu, cao áp huyết do dư đường trong máu, cao áp huyết do thiếu máu nghiêm trọng hémoglobine dưới 7g/100ml, cao áp huyết do xáo trộn nội tiết dư hoặc thiếu hormone nhất là trong thời kỳ tiền mãn kinh, tăng tuyến hạch, u bướu, cao áp huyết do tim mạch như hở lỗ động mạch chủ, rò động mạch, tĩnh mạch, xơ gan, tổn thương thận..
Như vậy do xét nghiệm chúng ta thấy có hàng chục loại bệnh cao áp huyết do nhiều nguyên nhân khác nhau, nếu không truy tìm nguyên nhân, chỉ dùng máy đo áp huyết, thấy lúc nào cũng cao hơn tiêu chuẩn bình thường ( trên 140mmHg/90mmHg) và có những dấu hiệu đau đầu ở phía gáy, ù tai, chóng mặt, mệt mỏi, cảm giác ruồi bay trước mắt, chảy máu cam, tim đập bất bình thường.. ai cũng biết đó là bệnh cao áp huyết.
Bệnh cao áp huyết không đơn giản dừng lại ở đây mà nó cứ phát triển mãi càng ngày càng nặng, Tây y chia ra làm 4 giai đoạn :
i- Giai đoạn một :
Đo áp huyết thấy cao thường xuyên, mà xét nghiệm không thấy có tổn thương thực thể ở tim, gan, thận, mạch, chỉ thấy có cholestérol hoặc, calci, hoặc Chlor, hoặc Natri trong máu cao, trong nước tiểu tăng.. cho nên người bệnh cần phải cữ ăn chất béo, chất mặn. Vì chất béo làm tăng cholestérol trong máu sẽ làm nghẽn hẹp ống mạch bao quanh tim, ăn mặn làm số lượng muối ClNa vào cơ thể không chuyển hóa và đào thải kịp làm tăng Chlor và Natri trong máu và trong nước tiểu. Có dư Natri- huyết dễ làm kết tủa cholestérol tập trung nơi ống mạch máu về tim làm tắc nghẽn những ống mạch quanh tim sẽ dẫn đến bệnh sang giai đoạn hai.
ii- Giai đoạn hai :
Nếu cơ thể khỏe mạnh, phản ứng tự nhiên là ‘’ khi ăn mặn, phải khát nước’ ’tức là phản ứng tự động của cơ thể đòi tiếp tế thêm nước để chuyển hóa Cl và Na dư thừa ra đường tiểu để bảo vệ máu không dư Natri, nếu không Natri sẽ kết tủa chất béo làm tổn thương thực thể như tim bị dầy tâm thất bên trái, hẹp động mạch võng mạc, có protéine niệu hoặc créatinine huyết tương tăng nhẹ.
iii- Giai đoạn ba :
Dầy thất trái dẫn đến suy thất trái khiến qủa tim co bóp để cho huyết lưu thông không đều, xuất huyết não thành biến chứng tê liệt, nhẹ thì liệt mặt méo miệng do liệt thần kinh ngoại biên, nặng thì thêm bệnh Parkinson co giật đầu và tay chân, nặng nữa thì bán thân bất toại. Nếu không tổn thương não thì tổn thuơng đáy mắt làm xuất huyết võng mạc, sụp mí mắt, phù gai thị, nếu không tổn thương não, tổn thương mắt thì bị cơn đau thắt ngưc ( angine ) làm nhồi máu cơ tim ( crise cardiaque ), nếu qủa tim còn khỏe sẽ có tổn thương thận như suy thận..
iv- Giai đoạn bốn :
Cao áp huyết ác tính thuộc giai đoạn bốn thường gặp ở những người đã có bệnh ở các giai đoạn trên dù bệnh còn nhẹ hay vừa nhưng chữa không đúng nguyên nhân, chỉ chữa cầm chừng ngăn ngừa không cho áp huyết tăng lên chứ không làn áp huyết hạ xuống mức bình thường, có khi không phải thuốc mà do sai lầm ăn uống, biến đổi tâm lý thần kinh, tự nhiên đau đầu dữ dội, đáy mắt xuất huyết độ 3 hoặc phù gai thị độ 4, huyết áp lên cao cả tâm thu lẫn tâm trương ( cả số đo trước, số đo sau ),khát nước nhiều, sụt cân, rối loạn tiêu hóa, bệnh tiến nhanh làm tai biến mạch máu não hoặc tai biến ở tim ( stroke ) dẫn đến tử vong.
2-Theo quan điểm đông y :
Từ khi Đông y thuở sơ khai ,chưa dựa vào học thuyết âm dương ngũ hành của Khoa triết học đông phương để lập nên hệ thống lý luận kinh mạch tạng phủ và sự liên kết khí hóa, chỉ xem như là một giả thuyết chưa qua kinh nghiệm thực hành cách nay khỏang 6000 năm, mà nhu cầu đối phó với bệnh tật con người ở thời nào cũng có, do đó các thầy thuốc Trung Quốc thời cổ đại muốn nghiên cứu lý thuyết kinh mạch, tạng phủ, ngũ hành trên cơ thể con người để tìm hiểu thấu đáo về nguyên nhân bệnh tật, đã được phép nhà vua cho sử dụng tử tội để mổ xẻ nghiên cứu trên thân thể sống của tử tội, phải mất một thời gian dài hàng ngàn năm khám phá ra huyệt đạo, kinh mạch, được thử và theo dõi những loại thuốc đang nghiên cứu đưa vào cơ thể tội nhân, cứ thế từ đời này sang đời khác để bảo đảm công việc nghiên cứu dựa trên mọi giả thuyết đã được chứng minh là đúng trong cùng một điều kiện có kết qủa như nhau ở mọi thời đại, cuối cùng đông y đã đúc kết kinh nghiệm hoàn chỉnh thành hệ thống lý luận căn bản trong việc khám và chữa bệnh. Về châm cứu có quyển Hoàng Đế Nội Kinh, về dược thảo có Bản Thảo Thần Nông. Các đời sau có các thánh y bổ sung thêm kiến thức làm cho sáng tỏ và vững chắc rõ ràng hơn như thần y Tàn Việt Nhân hiệu Biển Thước soạn ra quyển Nạn Kinh, Hoa Đà dạy mổ xẻ và bào chế thuốc. Càng về sau càng có nhiều danh y áp dụng càng thấy chính xác và có cái hay độc đáo của nó. Có thể nói hơn 2000 năm, những giả thuyết, những nghi ngờ đều dùng thân sống của tử tội để mổ xẻ chết biết bao nhiêu người để đúc kết một phương pháp chữa bệnh hoàn chỉnh và độc đáo của đông y, cuối cùng các thầy thuốc không dám lạm dụng thân sống của tử tội để thử nghiệm những cái gì đã biết do kinh nghiệm tiền nhân để lại, cho nên họ nói rằng ‘’ cái gì chưa biết mới phải thử, cái gì đã biết rồi khỏi cần phải thử nữa ‘’.
Do đó, suốt 2000 năm tây lịch, y học phương tây phát triển giỏi về khoa giải phẫu mà không hề thấy bên đông y có thuật giải phẫu, cho nên khi so sánh hai cách chữa bệnh của đông-tây y thì đông y có về lỗi thời, khám bệnh bằng nghe 28 bộ mạch đập ở cổ tay có vẻ mơ hồ khó tin, còn châm cứu dựa vào huyệt đạo kinh mạch lại mơ hồ giả tưởng vì khi giải phẫu hoặc chụp hình cơ thể không thấy. Nhưng kết qủa chữa bệnh thì không thể phủ nhận được.
Đúng ra 6000 năm qua nó phải lỗi thời, ai mà chẳng muốn sửa đổi, nhưng qủa thật nó qúa đơn giản đến mức không thể sửa đổi căn bản, nó là chân lý, nhờ chân lý người ta có thể gia tăng nhiều sáng tạo hơn. Nó đơn giản chỉ có 5 hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tượng trưng cho tạng âm là phổi, gan, thận, tim, lá mía và phủ dương là ruột già, túi mật, bàng quang, ruột non, bao tử . Nó là một môn khoa học như toán học, cả thế giới đều công nhận chỉ có 10 con số từ 0 đến 9 và 4 phép toán cộng ,trừ, nhân, chia, không bao giờ thay đổi. Mười con số và 4 phép toán đã phát minh ra từ thời con người biết sống thành đoàn thể để giao tiếp hàng ngày về buôn bán, phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật, các nhà bác học cũng dựa vào chân lý đơn giản này mà đã sáng tạo được nhiều môn học như đại số, số học, hình học, cơ học, lượng giác, giải tích, tích phân, vật lý, hóa học, vi phân, vi tính,,,phát minh ra nhiều phép tính, ra nhiều máy móc điện toán cũng không ngoài 10 con số và 4 phép tính căn bản, đơn giản này.
Lý thuyết âm dương ngũ hành giống như một định đề toán học, có chấp nhận nó mới dùng nó để chứng minh các bài toán học, đó là sự tiến bộ của khoa học, cũng như thế, từ lý thuyết đến lý luận của âm dương ngũ hành dựa theo triết học của môn dịch-lý , mọi sự vật đều biến đổi theo một quy luật cực âm sinh dương, cực dương sinh âm, giữa hai giai đoạn có sự biến đổi âm dương là sinh, trưởng, hoá , thâu, tàng nối tiếp nhau liên tục như trái rụng xuống đất, hạt nẩy mầm (sinh ), lớn lên thành cây ( trưởng ), đơm hoa ( hoá ), kết trái (thâu ),rụng xuống đất ủ thành mầm ( tàng ), rồi lại sinh, trưởng, hoá, thâu tàng liên tục.
Đem áp dụng học thuyết âm dương ngũ hành tạng phủ trong việc trị bệnh cho con người, các thầy thuốc đông y đã biết phối hợp chặt chẽ về cách khám và cách chữa đối chứng trị liệu lâm sàng vào mỗi lúc mỗi biến đổi bệnh tình khác nhau, họ đã ghi nhận được những giai đoạn biến đổi bệnh lý bằng phương pháp khám bệnh theo tứ chẩn : vọng văn vấn thiết thay cho môn khoa học xét và thử nghiệm của tây y, và đã thống kê được kinh nghiệm 28 loại mạch khác nhau do sự biến đổi của bệnh tình dựa vào 8 yếu tố căn bản như kim chỉ nam của đông y gọi là bát cương như âm-dương, hư-thực, hàn-nhiệt, biểu-lý.
a- Về Khám Bệnh :
Xét bệnh theo Âm-Dương :
Âm bệnh thuộc về huyết bệnh, do tạng nào bệnh, bệnh về cơ sở hay bệnh về chức năng.
Dương bệnh thuộc về khí bệnh, do phủ nào bệnh, bệnh về cơ sở hay bệnh về chức năng.
Xét bệnh theo Hư-Thực :
Hư là hoạt động yếu kém, thiếu hụt về khí hay về huyết, về cơ sở hay về chức năng ở tạng nào, phủ nào, đã tổn thương thực thể hay chưa .
Thực là dư thừa, hoạt động qúa mạnh làm mất sự quân bình của tổng thể làm xáo trộn khí hay huyết, về cơ sở hay về chức năng ở tạng nào phủ nào, đã tổn thương thực thể hay chưa.
Xét bệnh theo Hàn-Nhiệt :
Vì mất quân bình âm dương của tạng phủ do hư hay thực, cơ thể sinh ra phản ứng nóng hay lạnh khác nhau, như hư hàn, hư nhiệt hay thực hàn, thực nhiệt. Đông y phân biệt ra chứng hàn, chứng nhiệt của từng tạng phủ từ đơn giản đến phức tạp.
Xét bệnh theo Biểu-Lý :
Tùy theo đường kinh của tạng phủ bị bệnh, đông y biết được bệnh tình nhẹ thuộc biểu, hoặc bệnh đã tiến sâu vào phủ tạng thành bệnh nặng thuộc lý.
b- Về Định Bệnh :
Qua kinh nghiệm tứ chẩn Vọng, Văn, Vấn, Thiết đều quy về bát cương âm-dương, hư-thực, hàn-nhiệt, biểu-lý , đông y nhận thấy những biến đổi và diễn tiến của bệnh tình từ nặng sang nhẹ là bệnh thuyên giảm hoặc từ nhẹ sang nặng là bệnh tình trở nên nặng hơn, và đã đúc kết được những kinh nghiệm của những loại bệnh luôn luôn có những biến đổi giống nhau gọi là dấu hiệu lâm sàng ,từ đó, đông y lý luận sắp loại thành hơn một ngàn loại bệnh chứng kèm theo dấu hiệu lâm sàng lập thành môn học triệu chứng lâm sàng . Như vậy phần định bệnh phải chỉ rõ nguyên nhân của những dấu hiệu lâm sàng do âm hay dương, do tạng hay phủ, hư hay thực, hàn hay nhiệt, biểu hay lý và gọi chúng là một chứng bệnh.
Bệnh cao áp huyết đối với đông y có hư, có thực, hoặc hư thực lẫn lộn do nhiều nguyên nhân khác nhau như do chức năng gan thận, do tổn thương cơ sở ở tim, ở gan, thận, có thể do can phong, do ứ huyết, do đờm..nhưng phải xếp theo bát cương thành một chứng, và có 4 chứng chính thường gặp gồm có :
1-Dương cang can nhiệt chứng , hay là bệnh cao áp huyết do gan nhiệt :
Dãu hiệu lâm sàng : Đầu váng căng đau, trán nóng, buồn bực, dễ cáu giận, họng khô, ráo, nóng, thích uống nước mát, đại tiện khô, nước tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác. Đối chứng trị liệu phải thanh nhiệt bình can.
2-Âm hư dương can chứng, hay do thận hư gan thực :
Dấu hiệu lâm sàng : Đầu váng căng đau, dễ cáu giận, miệng họng khô, lưỡi đỏ,rêu lưỡi khô, lưng gối nhức mỏi, mạch huyền. Đối chứng trị liệu phải Tư thận bình can.
3-Can thận âm hư chứng, hay là do gan và thận âm hư :
Dấu hiệu lâm sàng: Váng đầu, hoa mắt, hay quên, mất ngủ, sắc lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, lưng gối nhức mỏi ,kinh nguyệt không đều, mạch huyền sác. Đối chứng trị liệu lâm sàng phải Tư Bổ Can Thận.
4-Âm-Dương lưỡng hư chứng, do gan thận âm dương đều hư :
Dấu hiệu lâm sàng giống trường hợp 3 có thêm hiện tượng tiểu đêm nhiều, thỉnh thoảng chân lạnh, mạch xích vô lực. Đối chứng trị liệu lâm sàng phải Tư âm ôn thận.
Ngoài 4 trường hợp trên thuộc loại cao áp huyết mãn tính cần chữa trị lâu dài, còn có một số bệnh cao áp huyết do nguyên nhân thứ phát, ảnh hưởng bởi một chứng bệnh khác như :
5-Trường vị thực nhiệt chứng : để lâu không chữa khỏi sau làm thành bệnh loét bao tử hoặc viêm loét ruột..
6-Tâm, Tâm bào thực nhiệt : sau thành bệnh viêm màng bao tim, bệnh mạch vành, bệnh đau thắt tim ( angine ), nhồi máu cơ tim.
7-Can vị nhiệt : sinh phong đờm hỏa làm hẹp động mạch gây tắc nghẽn tuần hoàn tim mạch.
8-Tỳ thực, Vị suy : ăn nhiều, bao tử không chuyển hóa chất bổ thành khí huyết mà biến thành đờm làm tắc ống mạch ( cholestérol nằm trong trường hợp này ).
9-Viêm mũi : làm co dãn mạch bất thường, chỗ co chỗ dãn.
10-Tâm can hư : làm tim bị thòng, áp huyết cao thường xuyên trên 180/100 mmHg, nếu hạ áp huyết xuống 160/100 mmHg bệnh nhân cảm thấy mệt, vì đối với bệnh cao áp huyết mãn tính, áp huyết có khi tăng cao trên 220/100 mmHg.
11-Thận nhiệt : là một loại bệnh của Tiểu đường, hai gan bàn chân nóng cũng làm áp huyết tăng cao do Glucoza-huyết tăng.
12-Cao áp huyết do phong thấp : khi dùng thuốc, calci- huyết tăng làm suy thận, sạn thận.
B- CÁCH CHỮA :
1-Theo phương pháp Tây y :
Tên thuốc thương mại mang nhiều tên khác nhau, nhưng các nhóm thuốc để phối hợp trị bệnh cao áp huyết gồm có :
1-Thuốc lợi tiểu, có 3 loại :
- Lợi tiểu hạ Kali-huyết
- Lợi tiểu giữ Kali-huyết
- Lợi tiểu phối hợp.
2-Thuốc phong bế giao cảm có hai nhóm :
- Phong bế giao cảm tác dụng trong nơ-ron.
- Tác dụng lên thụ thể trung ương loại alpha, loại béta.
3-Thuốc giãn mạch.
4-Thuốc chẹn dòng calci.
5-Thuốc ức chế chuyển dạng Angiotensin
Theo hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới, cách trị bệnh cao áp huyết chia ra 3 giai đoạn :
* Giai đoạn một :
Bệnh nhân dưới 45 tuổi, dùng thuốc chẹn béta.
Bệnh nhân trên 45 tuổi, dùng thuốc lợi niệu.
Dùng liều trung bình, nếu cần, tăng liều dần, nếu không có kết quả chuyển sang giai đoạn hai.
* Giai đoạn hai :
Phối hợp cả hai vừa thuốc chẹn béta vừa thuốc lợi niệu, liều tăng dần, nếu không có kết qủa chuyển sang giai đoạn ba.
* Giai đoạn ba :
Phối hợp thuốc chẹn béta, lợi niệu và một trong các loại thuốc khác như :
Hydralazine ( thuốc giãn mạch ).
Méthyldopa hoặc Clonidine tác dụng lên thụ thể trung ương.
Hoặc Guanéthidine ( tác dụng trong nơ-ron )
Nếu chưa bớt thì dùng 2 trong 3 loại thuốc kể trên.
Khi có chống chỉ định dùng thuốc chẹn béta, đổi công thức như sau :
Giai đoạn một : Lợi niệu.
Giai đoạn hai : Lợi niệu và Alpha Méthyldopa hoặc Clonidine.
Giai đoạn ba : Lợi niệu và Alpha Méthyldopa hoặc Clonidine và thuốc giãn mạch.
Trường hợp áp huyết dao động, không cao lắm không cần dùng thuốc.
Về ăn uống : Cữ rượu, giảm chất béo, hạn chế ăn muối.
Về tinh thần : Tránh stress, thư giãn, bỏ thuốc lá, cà phê, có thể dùng thuốc an thần nhẹ.
Về vận động : Thực hành thư gìãn.
2-Theo phương pháp đông y :
Phương pháp chữa của đông y đa dạng, hoàn toàn khác hẳn Tây y. Có nhiều vị bác sĩ Tây y học qua đông y, hiểu biết tường tận về phương pháp lý luận âm dương ngũ hành đều có chung một nhận xét : Tây y chữa vào organes, đông y chữa vào systèmes.
Một thí dụ đơn giản A đánh nhau với B.
Cách giải quyết của Tây phương nhờ cảnh sát can thiệp, người bị thương đi bệnh viện, người có tộI đi tù. Như vậy chưa giải quyết được nguyên nhân, sau hai người gặp lại nhau sẽ đánh nhau nữa.
Cách giải quyết của Đông phương là can gián sự xung đột, tìm người liên hệ là mẹ hay con của A hoặc B để xử lý theo nguyên tắc con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con .
Trường hợp A thực ,có lỗi đã gây chuyện với B. B yếu thế hơn gọi là hư, cần mẹ giúp sức để có cách tự bảo vệ mình làm cho A không dám đánh, hoặc B dọa nếu A đánh nó, nó sẽ đánh con của A làm A sợ không dám gây chuyện nữa, sau này hai người có gặp lại nhau cũng không đánh nhau nữa, đó là cách chữa gốc thuộc bản, can thiệp là chữa ngọn thuộc tiêu .
Nguyên tắc chữa của đông y là Đối chứng trị liệu lâm sàng do đó khi khám bệnh phải tìm được nguyên nhân gốc do chứng nào làm ra, mới có thể dùng phương pháp đối chứng trị liệu lâm sàng được. Đối chứng trị liệu lâm sàng có nhiều cách như hư thì bổ, thực thì tả, nhiệt thì làm mát, làm mất nhiệt, hàn thì làm ấm theo nguyên tắc con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con .Tuy nhiên, đông y phải chọn cách nào tối ưu để điều chỉnh lại sự khí hóa âm dương, ngũ hành của tổng thể, lập lại quân bình hòa hợp sự hoạt động của tạng phủ về cả ba phương diện khí hóa là TINH-KHÍ-THẦN, làm cho hòa hợp, cơ thể sẽ khỏe mạnh tự hết bệnh tật.
a- Điều chỉnh yếu tố do TINH :
Là điều chỉnh lại sự ăn uống, thuốc men làm sao cho phù hợp với nhu cầu của cơ thể mà không làm hại cơ thể căn cứ vào chứng.
Thí dụ bệnh thuộc âm, hư, hàn, cần ăn uống và thuốc men có tính chất thuộc âm giúp cho âm bổ mạnh lên, có tính chất làm ấm để trị hàn. Chống chỉ định là không được ăn hoặc uống thuốc làm cho âm hư thêm, hàn thêm.
Thí dụ bệnh âm hư, dương hư, âm thuộc huyết, dương thuộc khí, cần ăn hoặc uống thuốc phải bổ được cả khí cả huyết, nếu cơ thể hàn phải chọn loại bổ có tính tăng nhiệt, nếu cơ thể nhiệt, phải chọn loại bổ có tính làm mát, thanh nhiệt..
Nếu điều chỉnh TINH đúng, cơ thể sẽ hấp thụ và chuyển hóa thức ăn, uống và thuốc men giúp cơ thể lập lại quân bình, khí huyết lưu thông đầy đủ, cơ thể biến chuyển tốt hơn, mạnh hơn, bệnh sẽ thuyên giảm, mau bình phục. Ngược lại, thức ăn uống, thuốc men dù bổ nhưng không hợp đúng với nhu cầu cơ thể cần sẽ làm cho cơ thể tiêu hao năng lượng để đào thải ra ngoài khiến cơ thể suy yếu dần.
Điều chỉnh TINH đúng nhu cầu, sự khí hoá sẽ sinh khí sinh huyết nuôi dưỡng và bảo vệ cơ thể khỏe mạnh phòng chống bệnh hữu hiệu, điều chỉnh sai không đúng nhu cầu sẽ hao mất khí mất huyết khiến cơ thể suy nhược bệnh trở nên trầm trọng.
b- Điều chỉnh yếu tố KHÍ :
Là chú trọng đến sự tuần hoàn của khí và huyết trong cơ thể xem thiếu hay đủ, thông hay tắc, thuận hay nghịch, mạnh hay yếu, nóng hay lạnh.
Sự thiếu hay đủ khí huyết lệ thuộc và sự điều chỉnh ăn uống ( yếu tố tinh ).
Sự thông hay tắc ở ống mạch tuần hoàn hoặc ở đường kinh dẫn khí lưu thông phải nhờ vào châm cứu day bấm huyệt để giải tắc, tán tà.
Sự thuận hay nghịch chiều lưu thông của khí huyết phải nhờ vào thuốc hoặc bằng ngoại dược ( thuốc uống ) hoặc nội dược (thuốc tự cơ thể tiết ra do kích thích huyệt ) để làm cho khí huyết đi thuận đường kinh, hoặc qua chức năng của huyệt có thể tái lập lại chương trình hoạt động của hệ thần kinh trung ương làm cho nó có thể kiểm soát được sự khí hoá của kinh mạch tạng phủ, hòa hợp được sự quân bình của cả tổng thể âm dương ngũ hành về hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục được tốt.
Sự mạnh hay yếu phải nhờ vào sự vận động, thể dục thể thao, bơi lội, dưỡng sinh, tập luyện khí công. Về phương diện phòng bệnh, đông y chú trọng đến khí công dưỡng sinh. Về phương diện chữa bệnh trực tiếp cho từng loại bệnh, đông y chú trọng đến khí công chữa bệnh gồm hai phần tĩnh công và động công, giúp cho tăng khí huyết, lưu thông mạnh hơn, thuận theo chiều kinh mạch, hợp với nhu cầu cơ thể cần, có loại khí công cơ thể không cần sẽ làm cho hư thêm hư, thực thêm thực ,không chữa được bệnh mà khiến bệnh trở nặng thêm, vì khí công chữa bệnh cũng phải thuận với khí của ngũ hành mà cơ thể đang cần mới có thể chữa được bệnh.
c- Điều chỉnh yếu tố THẦN :
Thánh nhân từng nói : ‘’Điềm đạm hư vô, thân nào mà bệnh tật ‘’chứng tỏ yếu tố tinh thần rất cần thiết trong việc chữa bệnh.
Qủa thật đa số bệnh do yếu tố tinh thần như lo âu, buồn rầu, bực tức, bất mãn, vộI vã, căng thẳng, sợ hãi, nóng nẩy giận dữ, chán đời bị ảnh hưởng bởi đời sống, môi trường sinh hoạt cũng làm tổn thương thực thể hoặc làm xáo trộn sự quân bình khí hóa của âm dương ngũ hành tạng phủ.
Như vui qúa hại Tim, áp huyết tim mạch đập bất bình thường, loạn nhịp, hại thần kinh, cổ nhân thường nói vui qúa hóa điên dại vì tinh thần mất tự chủ để kiểm soát hành động cử chỉ qúa trớn của mình.
Lo qúa ăn mất ngon hại Tỳ Vị làm không muốn ăn, hoặc ăn không tiêu hóa, thức ăn chứa lâu trong bao tử không chuyển hóa sẽ lên men làm loét bao tử.
Buồn quá hại Phổi, hay thở ra làm teo phổi, thở ra nhiều mà không hít vào nhiều làm máu thiếu oxy, tuần hoàn huyết chậm lại sẽ suy nhược thần kinh, cơ thể gầy yếu, kém trí nhớ, ưa thở dài gây đau nhói tim ngực, ở phụ nữ thời kỳ cho con bú sẽ mất sữa, nếu không sẽ dẫn đến bệnh ung thư vú.
Sợ qúa hại thận, thực tế sợ qúa toát mồ hôi, vãi đái, xanh mặt, đều hại đến thần kinh và tế bào não..
Giận qúa bầm gan tím ruột hại đến sự hoạt động của gan, khiến các gân co rút, chân tay run rẩy, nếu có bệnh cao áp huyết, các ống mạch thắt hẹp lại máu sẽ dồn lên não làm đứt mạch máu não hoặc sung huyết não sinh tê liệt, bán thân bất toại, hôn mê (coma ).
Muốn điều chỉnh được tinh thần thì cứ để mọi chuyện tự nhiên, không vui qúa, không buồn qúa, không giận qúa, không lo qúa, không sợ qúa. Cần định tâm bằng cách thư giãn hoặc tập tĩnh công để dưỡng thần, tham dự các buổi sinh hoạt tập thể nhẹ nhàng, ca hát, bơi lộI, thể dục nhịp điệu.. Khi mắt thấy tai nghe những điều gì bất ý, tâm dừng lại không phân tích đào sâu vào chi tiết diễn tiến của sự việc để tâm đừng dấy động..
Nguyên tắc chữa bệnh của đông y là sau khi định được bệnh chứng sẽ có phương pháp đối chứng trị liệu tùy theo nguyên nhân, và áp dụng cả ba yếu tố tinh-khí-thần trong việc trị liệu.
d- Áp dụng phương pháp đông y chữa bệnh cao áp huyết
Theo đông y, bệnh cao áp huyết mãn tính có 4 trường hợp thường gặp, cách chữa sẽ tùy theo mỗi trường hợp mỗi khác tùy theo nguyên nhân gây bệnh :
Trường hợp một :Do dương cang can nhiệt chứng
Đối chứng trị liệu : Dùng phép Thanh nhiệt ,bình can.
Theo đông y, gan chứa huyết, trong huyết có dư calci làm máu nóng tụ ở gan sinh ra gan bị nhiệt, máu dãn nở thể tích làm căng các ống dẫn máu sẽ gây ra bệnh sung huyết não.
a-Điều chỉnh TINH :
Những loại nước uống hay thức ăn phải làm cho mát gan, mát máu, không được ăn uống những thứ làm tăng nhiệt nóng máu hại gan.
Về dược thảo :
Dùng các vị Quyết minh, sinh địa, hạ khô thảo, xa tiền thảo, cúc hoa, hy thiêm thảo. Tỷ lệ phần trăm các loại thuốc phù hợp với nhu cầu cơ thể do tỷ lệ phần trăm của bát cương âm dương, hư thực, hàn nhiệt, biểu lý ở mỗi người mỗi khác, do thầy thuốc đông y khám và định phân lượng, phải vừa đúng, đủ, thích hợp để tạo ra năng lượng khí hóa, nếu thiếu sẽ không đủ sức khí hóa, nếu dư làm cơ thể hao tốn thêm năng lượng để đào thải ra ngoài cơ thể, nếu không đào thải, chất dư thừa tích lũy lại tạo thành biến chứng một bệnh khác.
b-Điều chỉnh KHÍ :
Bằng nội dược ( dùng huyệt ) :
Can huyết nhiệt thịnh phải tả con của can mộc ở kinh Tâm Bào hỏa là huyệt Đại Lăng bên trái để hạ hỏa, bấm Thái Xung ở kinh can trái để chỉnh lại can khí. Đó là hai huyệt chính thuộc quân thần trong một thế trận, thầy châm cứu phải thêm các huyệt khác phò tá, hổ trợ, dẫn đạo cho đầy đủ liều lượng quân, thần, tá, sứ để thành bài thuốc.
Bằng khí công chữa bệnh :
Động công :Tập các động tác hạ hỏa, tăng thủy,( thế tấn ngũ hành bổ phế, bổ thận ) và động tác điều hòa âm dương.
Áp dụng động công bằng bài thể dục khí công, hạc tấn mở mắt.
c-Điều chỉnh THẦN :
Tập tĩnh công, nằm ngửa hai tay úp trên bụng dưới nơi đan điền tinh ( huyệt khí hải, quan nguyên ), cuốn lưỡi, ngậm miệng nối Nhâm Đốc điều hòa âm dương, để kích thích nước miếng trào ra cổ họng không bị khô, tránh tẩu hỏa nhập ma, thở bình thường, nhắm mắt tập trung ý vào bụng dưới xem mạch đập hoặc khí ở bụng dưới đập vào lòng bàn tay càng nghe rõ càng có kết qủa tăng thủy để khắc chế hỏa giúp cho cơ thể tăng cường khí huyết lưu thông giúp thân nhiệt trở nên mát, tiêu hóa tốt, ăn ngủ ngon, hạ áp huyết.
Trường hợp hai : do chứng âm hư dương can :
Đối chứng trị liệu : Dùng phép Tư thận, bình can.
Theo đông y, âm hư là gan tổn thương, con hư phải bổ mẹ là bổ thận. Dương can là gan khí thực, do can âm hư thì can dương vượt lên làm lệch quân bình, phải bình can là điều hòa lại sự khí hóa của gan trở lại quân bình cho âm dương bằng nhau, dương khí của gan sẽ đi xuống trở về gan sẽ làm giảm áp lực của các ống mạch máu.
a-Điều chỉnh TINH :
Những loại nước uống và thức ăn làm cho thận chuyển hóa chất bổ nuôi con là gan âm mà không làm cho can khí dương tăng lên trên đầu.
Về dược thảo :
Có huyền sâm, bạch truật, hoài ngưu tất ( cho khí xuống chân), câu đằng, chích quy bản, thiên đông, con hào sống.. liều lượng do thầy thuốc định theo tỷ lệ bát cương cho đúng và đủ thành thế trận quân thần tá sứ.
b-Điều chỉnh KHÍ :
Bằng nội dược : (dùng huyệt ) :
Bổ thận âm bằng huyệt Phục Lưu làm tăng thận âm, bổ Thái Khê để thông kinh thận và chuyển hóa nuôi gan. Bình can bằng huyệt Thái Xung giúp gan khí đi xuống về gan. Bổ Can Du thông khí hoạt động của gan.Huyệt Phục Lưu làm quân, Thái Khê làm thần,Thái Xung làm tá, thêm huyệt làm sứ thành thế trận.
Bằng khí công chữa bệnh :
Động công :Tập các động tác làm mạnh Phế thận ( bài vỗ tay 4 nhịp ). Phế khí chủ đi xuống, can khí thuộc mộc vượng đi nghịch lên bị phế kim mạnh sẽ khắc mộc đẩy can khí về gan. Phế khí kim mạnh giúp thận thủy chuyển hóa, lọc máu, giúp gan lọc và thải độc trong gan.
Tĩnh công : Như bài trên, giúp bổ âm, tăng thủy, hạ hỏa.
c-Điều chỉnh THẦN :
Tập tĩnh công : Nằm nghỉ, để hai bàn tay úp vào nơi rốn, tai nghe mạch đập dưới lòng bàn tay, hơi thở bình thường, nhắm mắt, cuốn lưỡi lên vòm họng trên, nghe có cảm giác dưới hai bàn tay nóng ấm, khí tụ tại Đan điền tinh làm mạnh thận, tăng cường hệ thống miễm nhiễm, áp lực huyết dồn về bụng, giúp bổ âm tăng thủy, hạ hỏa , hạ áp huyết.
Trường hợp ba : chứng can thận âm hư :
Đối chứng trị liệu : Dùng phép :Tư can bổ thận.
Theo lý thuyết đông y ‘’âm hư hỏa vượng’’ hoặc ‘’âm hư sinh nội nhiệt‘’, người lạnh mà hai bàn tay đỏ, hâm hấp nóng, gọi là hư hỏa, phải bổ can âm và thận âm để cho can khí và thận khí không thoát ra theo đường mồ hôi làm mất âm huyết thêm.
a-Điều chỉnh TINH :
Những loại nước uống và thức ăn phải ấm nóng, không được lạnh, không làm thoát dương theo đường mồ hôi, và không được kích thích cho đi tiểu nhiều mới bảo tồn được âm dương.
Về dược thảo:
Có Kỷ cúc, địa hoàng, huyền sâm, bạch truật, hoài ngư tất, đơn bì, câu đằng, tùy theo bát cương định tỷ lệ liều lượng của quân thần tá sứ.
b-Điều chỉnh KHÍ :
Bằng nội dược (dùng huyệt ) :
Bổ thận âm bằng huyệt Phục Lưu, Thái Khê , hai huyệt này làm quân. Bổ can âm bằng huyệt Khúc Tuyền, bổ âm, tồn âm huyết bằng huyệt Khí Hải, Quan Nguyên, ba huyệt này làm thần. Dùng huyệt Tam âm Giao làm tá. Cho thuốc chạy vào gan thận thì dùng Can du và Thận du làm sứ.
Bằng khí công chữa bệnh :
Động công : Tập thế đứng tấn ngũ hành chuyển khí vào thận.
c-Điều chỉnh THẦN :
Tĩnh công : Như bài tập trên, nằm ngửa hai bàn tay đặt úp lên bụng dưới, cuốn lưỡi ngậm miệng, thở bình thường, theo dõi hơi thở phồng-xẹp nơi bụng dưới, để chuyển âm khí tụ về Khí Hải, Quan Nguyên, để bổ dưỡng huyết, mát máu, ăn ngủ được.
Trường hợp bốn : Chứng âm dương lưỡng hư :
Đối chứng trị liệu : Dùng phép Tư âm ôn thận.
Theo đông y, âm dương lưỡng hư là cả khí và huyết đều thiếu ở gan và thận. Gan trữ máu, thận lọc máu đều không hoạt động tốt, cần phải phục hồi chức năng của gan thận và bổ cả khí và huyết. Bệnh cao áp huyết trong trường hợp này có tổn thương thực thể ở gan hoặc thận, không đủ khí huyết tuần hoàn làm tim phải co bóp mạnh, làm thất trái qủa tim bị dầy khiến cơ tim bị căng, để lâu không chữa sẽ suy tim.
a-Điều chỉnh TINH :
Nước uống, thức ăn phải nóng ấm, nhẹ, dễ tiêu, có dược tính làm mạnh gan thận.
Về dược thảo:
Có Đỗ trọng, sinh địa, thục địa, huyền sâm, tang ký dinh, hoài ngưu tất, ích trí nhân. Tùy theo bát cương định tỷ lệ quân thần tá sứ.
Nếu do đờm tắc làm tức ngực, khó thở, buồn nôn thêm Pháp bán hạ, toàn qua lâu.
b-Điều chỉnh KHÍ :
Bằng nội dược ( dùng huyệt ) :
Hơ bổ huyệt Chiên Trung làm quân để tăng cường tông khí giúp vinh vệ khí hoạt động tốt. Dùng huyệt Trung Quản tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn giúp sinh khí huyết, dùng huyệt Khí Hải làm mạnh thận âm, hơ bổ huyệt Quan Nguyên làm mạnh chức năng thu rút chất bổ của thức ăn biến thành máu bổ sung nuôi dưỡng gan, tỳ, thận, ba huyệt này làm thần. Dùng huyệt Thiên Xu làm mạnh hệ tiêu hóa, bài tiết độc tố theo đại tiện ra ngoài cơ thể, và bổ Thận du giúp thận nạp được âm khí, hai huyệt này làm tá. Tất cả hiệu lực của thuốc âm khí âm huyết phải được chuyển hóa thành dương khí làm mạnh hệ miễn nhiễm, sinh tinh hóa tủy nuôi não, nuôi tế bào, thần kinh và thải độc, cần phải dùng huyệt Mệnh Môn làm sứ để dẫn thuốc vào Mệnh môn, giúp thận âm hóa khí, đồng thời Mệnh Môn tự điều chỉnh lượng nước, acide, muối, và đường trong máu, giúp cho sự chuyển hóa của gan, tỳ, vị, thận hoạt động đều mạnh.
Bằng khí công chữa bệnh :
Động công : Bài tập Cào đầu, giúp hệ thần kinh tỉnh táo, hầu có thể kiểm soát được mọi chức năng hoạt động của cơ thể và làm tăng sức đề kháng của cơ thể.
Bài tập Vỗ tay bốn nhịp, để tăng cường tông khí, thêm oxy cho phế khí, tăng hồng cầu, mạnh tiêu hóa, tăng sức hấp thụ, mạnh cột sống, mạnh gan thận, tăng cường hệ miễn nhiễm.
Bài tập Điều hòa âm dương, để thăng thanh giáng trọc, khí huyết được lưu thông từ đầu xuống chân, chỉnh lại hai bán cầu não.
c-Điều chỉnh THẦN :
Tập tĩnh công : Nằm quán hơi thở ở hai bàn tay úp nơi đan điền thần ( trên xương ức nơi giao điểm của hai xương sườn nơi ngực, mỏm đầu xương mũi kiếm ). Tâm không nghĩ những chuyện bên ngoài thân, chỉ chú ý tập trung lắng nghe hơi thở tự nhiên và nhịp mạch đập ở dưới hai bàn tay. Bài tập này giúp tăng dương khí chuyển hóa của lục phủ ngũ tạng giúp cơ thể ấm, tăng tính tiêu hóa và hấp thụ nhanh.
f- Điều chỉnh cách ăn uống :
Người bị bệnh cao áp huyết có thể thường xuyên ăn rau cần, mộc nhĩ, hải đới, đậu xanh có vỏ, dưa chua, sơn tra.
Rau cân :
Vắt lấy nước uống làm giảm áp huyết và làn hạ cholestérol, có thể nấu canh rau cần với thịt heo nạc không cần cho muối.
Mộc nhĩ :
Bổ thận âm, chữa gan thận âm suy, thường nấu canh với nấm hương, thịt heo nạc, chữa bệnh gan thận âm hư suy, và bệnh xơ cứng động mạch.
Hải đới :
Nấu nước uống hoặc nấu canh làm hạ nhiệt, hạ áp huyết và hạ mỡ trong máu.
Đậu xanh có vỏ :
Giúp thanh nhiệt, tả hỏa, chữa bệnh gan nhiệt, chữa chứng can nhiệt, can dương thượng kháng, giải độc, trị táo bón.
Dưa chua , sơn tra :
Ăn dưa chua hoặc nấu canh dưa chua, canh sơn tra thường xuyên làm giảm nguy cơ xơ cứng động mạch, tan mỡ trong máu, hạ cholestérol.
Ngoài ra, nếu can thận âm hư sinh đờm nhiều, khí trệ khó thở, nên ăn canh củ cải, uống sữa hạnh nhân, ăn qủa dâu, làm tan đờm thông khí.
Khi có đờm, không được ăn cam, chuối, bơ sữa bò, nước cốt dừa, nước đá lạnh, nước cốt trái cam, hoặc nhiều chất bột làm bánh để nguội lạnh, vì âm hư hàn gặp thêm chất hàn sẽ không chuyển hóa dưỡng trấp thành huyết mà biến thành đờm .(đờm là tên gọi chung của đông y bao gồm cholestérol và các loại dầu mỡ chậm tan, chậm chuyển hóa ở nhiệt độ thấp của cơ thể ).
Bệnh cao áp huyết cơ thể hay bị nóng, nhiệt, táo bón, dấu hiệu lâm sàng mặt đỏ trán nóng, hai bàn tay bàn chân nóng, khó thở, suyễn nhiệt, cấm kỵ không được ăn những chất làm tăng nhiệt, áp huyết sẽ đột nhiên tăng, căng các ống mạch làm đứt mạch máu não mặc dù có đang dùng thuốc giãn mạch. Các loại ăn uống tăng nhiệt nhanh như nhãn, xoài, chôm chôm, vải, sầu riêng, mít, khô mực, bún bò huế, canh chua cay thái lan, thịt dê hầm, nước cà rốt làm bón..
C- NHẬN XÉT HAI CÁCH CHỮA :
1-Theo cách chữa của Tây y :
Cách Khám bệnh, xét nghiệm, tìm và định bệnh của cả hai phương pháp tuy khác nhau nhưng rất chính xác, công phu, nhưng khác nhau ở cách chữa.
Cách chữa của tây y tùy theo sự tiến bộ của khoa học được chia thành bốn thời kỳ :
1.1- Thời kỳ chưa có máy đo áp huyết :
Khi chưa có máy đo áp huyết, tây y chưa định danh được bệnh cao áp huyết, đều chữa theo triệu chứng do bệnh nhân khai bệnh :
- Nếu nhức đầu, cho uống thuốc nhức đầu.
- Nếu táo bón, chữa táo bón.
- Nếu mất ngủ, chữa mất ngủ.
- Nếu mệt mỏi, cho thuốc bổ.
- Nếu chảy máu cam, chữa chảy máu cam ( Vitamine K )
Thời kỳ này tây y dùng thuốc rất đơn giản, bệnh nhân có thể bớt được vài chứng bệnh như hết bón, hết nhức đầu, ngủ được, ăn được. Bệnh nhân tin ở bác sĩ, không phải lo lắng gì, vì những triệu chứng riêng rẽ như thế không phải là bệnh nan y.
Nếu có bệnh nhân thường xuyên tái đi tái lại, bác sĩ cảm thấy các loại thuốc bào chế sẵn không mấy hiệu nghiệm, phải viết toa bào chế riêng , công thức do bác sĩ sáng tạo cho phù hợp với chứng bệnh, bệnh nhân cầm toa ra viện bào chế ở các nhà thuốc tây lớn chờ họ bào chế xong đem về dùng, uống một thời gian ngắn một tuần các chứng giảm dần, bác sĩ điều chỉnh lại toa thuốc khác, chừng vài lần thay đổi toa bệnh nhân thấy hết hẳn một thời gian lâu không tái phát, tinh thần bệnh nhân sung sướng, không phải lo lắng hoặc bị ám ảnh mình đang bị một chứng bệnh nan y mà ngày nay phải uống thuốc suốt đời cho đến khi lìa đời mới chấm dứt cả mạng cả thuốc.
Việc khám bệnh, định bệnh cho toa thuốc trị bệnh cao áp huyết thời đó hoàn toàn do tài năng của bác sĩ. Cách suy tư, tài lý luận biện chứng để cho ra một phương thuốc riêng cho một bệnh nhân có thể nói là một sự sáng tạo đúng, chính xác, đơn giản, hiệu nghiệm.
1.2-Thời kỳ máy đo áp huyết ra đời và sự phát triển của ngành dược:
Mọi bệnh nhân khi có 5 chứng bệnh khai ở trên, đều được đo thử áp huyết để bác sĩ rút tỉa kinh nghiệm, có chứng lúc đo áp huyết thấy tăng cao, có chứng khi đo áp huyết không cao, nhưng phương pháp chữa vẫn cổ điển, dùng thuốc theo toa bào chế riêng cho từng người có thể nói đa số có kết qủa.
Thời kỳ kinh tế thế giới phát triển, thuốc thành phẩm được chế hàng loạt, giá rẻ, tiện lợi nhanh chóng không phải bào chế riêng vừa chờ đợi bào chế, vừa đắt tiền, có khi không đủ nguyên liệu ở một nhà thuốc, kinh tế thị trường nghiêng về lợi nhuận, bán chạy ít kẹt vốn, cho nên nhà thuốc nghiêng về nhập cảng và bán những thuốc thành phẩm bào chế sẵn, các bác sĩ dù có giỏi lý luận và kinh nghiệm chữa bệnh bằng cách cho toa thuốc riêng từng người thì ở nhà thuốc không có nguyên liệu bào chế nữa, đành phải sử dụng những thuốc thành phẩm có sẵn ở thị trường, hiệu nghiệm của thuốc kém đi nhiều.
Khi bệnh nhân được đo áp huyết bác sĩ thấy áp huyết cao, thuốc thành phẩm không đáp ứng nhu cầu, mới nẩy sinh ra nhu cầu cần phải phát minh tìm tòi chế ra thuốc trị bệnh cao áp huyết. Đầu tiên, theo nhận xét chung của tây y, áp huyết tăng là do co mạch, dễ bị biến chứng đứt mạch máu nên ngành dược chế ra thuốc làm giãn mạch.
Các bác sĩ đo áp huyết bệnh nhân thấy cao, nên điều trị các chứng nhức đầu, táo bón, phối hợp thêm thuốc giãn mạch, kết qủa cũng khả quan, liều lượng gia giảm tùy theo kinh nghiệm riêng của bác sĩ.
Một thời gian sau ngàng y lại khám phá ra nguyên nhân bí tiểu cũng có thể làm căng mạch máu, ngành dược lại chế ra thuốc thành phẩm lợi tiểu cũng góp phần làm hạ áp huyết.
1.3-Thời kỳ máy thử cholestérol ra đời:
Giới y học nhận xét đa số bệnh nhân cao áp huyết, nếu là người mập do ăn nhiều, dư thừa chất béo, ngành xét nghiệm đã thử chất béo trong máu gọi là cholestérol, nên ngành khoa học kỹ thuật tìm cách phát minh ra máy đo cholestérol và ngành dược phát minh ra thuốc hạ mỡ trong máu, cũng nằm trong danh sách thuốc trị bệnh cao áp huyết.
1.4-Thời kỳ phát triển khoa tâm lý thần kinh :
Người ta để ý rằng các bệnh nhân cao áp huyết đã dùng thuốc được ổn định, nhưng khi giận dữ, làm việc căng thẳng đầu óc, bực bội khó chịu, thì tự nhiên áp huyết tăng vọt lên làm đứt mạch máu não gây tê liệt, làm té ngã bị hôn mê bất tỉnh (coma ),bị tử vong. Từ đó rút ra được kết luận do biến đổi tâm lý làm biến đổi thần kinh khiến gân mạch co rút áp huyết tăng nhanh đột ngột, nên ngành dược lại phát minh ra thuốc phong bế giao cảm, loại tác dụng lên thụ thể trung ương làm ức chế dao động thần kinh làm cho người như ngây như dại, ít cảm giác, ít xúc động hồi hộp, xem chừng như có vẻ hiệu nghiệm, tên thuốc thị trường lúc đó thịnh hành thuốc Clonidine như là một loại thần dược, sau này người ta khám phá ra sự tai hại của Clonidine. Khi có bệnh cao áp huyết dùng clonidine áp huyết hạ, nhưng người như đờ đẫn ngây dại không năng động, đó là phản ứng phụ của thuốc, cho nên tây y không muốn lạm dụng clonidine, cho bệnh nhân nghỉ dùng clonidine để thần kinh tỉnh táo lại thì gặp trở ngại áp huyết lên đột ngột làm chết người, ngành y dược khuyến cáo không được bỏ hẳn mà phải uống liều giảm dần cầm chừng cho đến suốt đời.
1.5- Những biến chứng của thuốc trị cao áp huyết :
Chiều hướng dùng thuốc chẹn dòng giao cảm, ngoài Clonidine ức chế thần kinh qúa mạnh, khi giảm và ngưng nó có thể gây nguy hiểm đến tánh mạng, ngành dược cố gắng phát minh ra các loại thuốc mới thay thế. Tuy nhiên ức chế giao cảm làm hệ thần kinh đối giao cảm, thần kinh phản xạ, thần kinh chức năng, thần kinh hưng phấn, thần kinh trung ương chỉ huy sự hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục.. mất khả năng khí hóa, dần dần suy nhược làm suy tim, suy hô hấp, suy thận, suy gan, suy tỳ.. sinh ra biến chứng của bệnh cao áp huyết , có 11 trường hợp chính được ghi nhận như sau :
1-Biến chứng suy tim do thuốc giãn mạch :
Dùng thường xuyên thuốc giãn mạch làm ống mạch giãn mỏng và dai, thể tích ống mạch to ra, lượng huyết chứa trong ống sẽ tụt xuống tạo sự giảm áp huyết giả tạo, cho nên biên độ giao động của áp huyết khi áp huyết tăng cao có thể lên 240/100 mmHg vẫn không nguy hiểm, khi áp huyết tụt xuống chỉ đến mức 150/100 mmHg là mạch còn an toàn không nguy hiển tánh mạng, nhưng khi ống mạch màng bao tim giãn sẽ làm cho qủa tim bị thòng xuống khiến nhịp tim đập rất chậm, mạnh, không đều, chỉ nghe được nhịp đập ở đáy tim đưa đến tình trạng suy tim. Khi áp huyết bệnh nhân xuống dưới 140/100 mmHg bệnh nhân cảm thấy rất mệt khó thở.
2-Biến chứng suy hô hấp do thuốc giãn mạch và thuốc chẹn dòng giao cảm :
Thuốc chẹn giao cảm làm giảm bớt chức năng hưng phấn thần kinh, có ảnh hưởng đến hô hấp và tuần hoàn, cho nên suy hô hấp là tình trạng thiếu khí trong phổi, thiếu oxy trong máu, giảm oxy-huyết làm các đầu ngón tay xanh tím không cảm giác, ý thức u ám, đờ đẫn, ngủ gà. Bệnh sẽ trở nặng thêm nếu dùng thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc lợi tiểu gây kiềm, hoặc áp dùng liệu pháp oxy không phải lúc cần thiết đúng bệnh, hoặc áp suất không khí thay đổi như đi nghỉ hè thay đổi không khí ở vùng cao độ.
Thuốc giãn mạch liều cao có thể làm khó thở thêm, xét điện tâm đồ có dấu hiệu suy thất phải, nếu có dấu hiệu ho ban đêm là dấu hiệu xẩy ra sớm của suy thất trái.
3-Biến chứng suy thận do hạ áp huyết và thuốc lợi tiểu :
Thuốc hạ áp là một trong nhiều nguyên nhân khác nhau làm suy thận chức năng, làm tăng uré-huyết gắn liền với mất cân bằng nước-điện giải, và mất cân bằng trong tuần hoàn làm giảm kali-huyết và mất nước.
Ngược lại, lạm dụng thuốc lợi tiểu làm mất thêm nước, có dấu hiệu nhăn da, đau thắt lưng, vọp bẻ, đau bụng, giảm glucoza-huyết, giảm natri-huyết, có thể tăng kali-huyết gây nên biến chứng suy thượng thận cấp.
4-Chứng suy thận mãn tính :
Lạm dụng thuốc hạ áp huyết lâu dài để ổn định áp huyết sẽ có dấu hiệu thiếu máu, áp huyết thấp, buồn nôn, vọp bẻ, khi xét nghiện máu thấy uré-huyết tăng, nhiễm acide chuyển hóa, créatinine-huyết tăng, acide uric-huyết tăng đó là dấu hiệu của chứng suy thận mãn.
Còn có một nguyên nhân suy thận mãn do thói quen uống nhiều nước quá gọi là ‘’ngộ độc nước’’, không phải trong nước có độc, mà do lượng nước nhiều làm hại chức năng lọc của thận khiến thận bị suy yếu dần.
5-Biến chứng lách to do thuốc phong bế giao cảm :
Do lạm dụng thuốc phong bế giao cảm loại tác dụng lên thụ thể trung ương Alpha-Méthyl-dopa ( như Aldomet ) cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm lách sưng to, cũng là dấu hiệu thiếu máu do tan máu, đôi khi có hội chứng tan máu uré-huyết với suy thận.
Ở người lớn, lách có thể sờ nắn được là lách bị bệnh, thấy có một khối ở hạ sườn trái, có thể nhìn thấy khối u thượng thận trái ở lưng không di động theo nhịp thở, lách to làm hạ góc kết tràng trái xuống thấp làm đùa bao tử sang phía phải, đấu hiệu lâm sàng trong chứng bệnh này là vàng da, nước tiểu đỏ hoặc đen (hémoglobine niệu ) và phân mầu sậm do thuốc L-dopa .
6-Biến chứng đau lưng nhức mỏi, phong thấp khớp :
Những ngườI bị bệnh cao áp huyết khi dùng thuốc lâu dài, áp huyết được ổn định, khi ngưng thuốc đột ngột, áp huyết tăng trở lại như cũ nên phải dùng thuốc suốt đời, cho nên tình trạng áp huyết giảm sẽ làm cho khí huyết không đủ áp lực thúc đẩy tuần hoàn đi đến các khớp, các khe kẽ của khớp xương, đốt sống lưng, đốt ngón tay, khớp khuỷu tay, khớp vai, khớp đầu gối, khớp mắt cá cổ chân, cổ tay, huyết không đến nuôi dưỡng, bệnh nhân cảm thấy đau nhức, tê, bệnh kéo dài khiến gân, sụn, đầu xương khô , bị thoái hóa biến dạng như gai cột sống, vẹo khớp ngón tay chân, nổi khối u như lồi xương giữa hai khớp, đầu gối cứng khô, mòn, đau bên trong khó cử động.
Nếu chú trọng đến việc chữa bệnh cao áp huyết sẽ làm giảm áp lực tuần hoàn khí huyết sinh bệnh thoái hóa xương khớp sinh đau nhức phong thấp khớp gia tăng.
Nếu chữa bệnh phong thấp đau nhức khớp làm tăng áp lực tuần hoàn khí huyết để hết đau nhức thì áp huyết lại tăng cao, có triệu chứng sung huyết não, mất ngủ, nhức đầu, mệt tim. Khi nổi giận dễ bị đứt mạch máu não.
Vì theo tây y, bệnh xương bị đau nhức không chữa sau dễ bị xốp xương hoặc ung thư xương, nên bác sĩ chuyên khoa xương cho bệnh nhân dùng calcium để bổ xương, phụ nữ dùng thêm hormone. Nhưng khi thử máu lại có dư calci-huyết làm tăng áp huyết, bác sĩ chuyên trị áp huyết lại cho dùng thuốc chặn dòng calci để làm giảm calci-huyết để cho áp huyết hạ thì bệnh đau nhức xương khớp tái phát. Đó là cách chữa mâu thuẫn của chuyên khoa, không kết hợp với nhau, vả lại hiện nay tây y dược chưa có một loại thuốc thích hợp dung hòa để chữa chung cho cả hai bệnh cùng một lúc đựợc hoàn chỉnh, còn nếu chữa riêng rẽ thì vẫn có mâu thuẫn, chữa được bệnh này lại hại bệnh kia.
Một đề nghị cho bệnh nhân bị cả hai bệnh mâu thuẫn trên thì chỉ nên dùng một loại thuốc trị bệnh cao áp, còn bệnh đau nhức xương khớp không nên dùng thuốc uống hay chích, mà nên dùng thuốc xoa bóp bên ngoài, tắm nước nóng ấm với bột gừng, châm cứu, tập vận động chân tay, co duỗi chân tay, thể dục nhịp điệu arobic, đi bộ đi xe đạp tại chỗ, bơi lội nhẹ với nước nóng ấm, hoặc tập khí công, và tập đều mỗi ngày giúp khí huyết lưu thông đều vào đến khe kẽ khớp xương sẽ hết đau nhức.
7-Bệnh tiểu đường do thuốc lợi tiểu :
Bệnh tiểu đường, ở Việt nam gọi là bệnh của người giầu, nói chung là bệnh ăn uống dư thừa về dinh dưỡng, người béo mập, ăn nhiều mà ít chịu vận động tay chân để chuyển hóa năng lượng, ngoài ra còn do nguyên nhân di truyền, do nguyên nhân bị thương tích sọ và tủy sống, biến chứng của bệnh quai bị, thương hàn, lao, thai nghén, xáo trộn tuyến nội tiết, lạm dụng thuốc kháng viêm corticoĩds, ACTH và đặc biết là lạm dụng thuốc lợi tiểu trong điều trị bệnh cao áp huyết.
Bệnh tiểu đường và bệnh cao áp huyết cũng là một mâu thuẫn trong cách điều trị do thuốc. Dấu hiệu tiểu đường là khát nhiều do tăng năng tuyến giáp, tăng calci-huyết làm áp huyết tăng cao, mà thuốc lợi tiểu cũng làm tăng calci-huyết, tăng chlor-huyết và giảm kali-huyết làm xáo trộn tiêu hóa, xáo trộn nội tiết, xáo trộn chức năng thận, chức năng lá lách và tụy tạng mới sinh ra bệnh tiểu đường.
8-Biến chứng gỉảm áp huyết ở thế đứng do thuốc và do ăn uống :
Tất cả các loại thuốc giảm áp huyết và loại thuốc an thần kinh mạnh như Largactil,Aminazine.. thuốc lợi tiểu, thuốc nhuận trường, L-dopa, sẽ làm giảm áp huyết ở thế đứng, có dấu hiệu khởi phát như đái dầm, liệt dương, mất ý thức, mạch không đập nhanh, cuối cùng có dấu hiệu run tay chân Parkinson, liệt mắt.
Giảm áp huyết ở thế đứng làm giảm chlor-huyết dưới 90 mmol/l do chế độ ăn uống như uống nước nhiều gọi là hội chứng ngộ độc nước, làm tăng ngấm nước ngoài tế bào khiến giảm natri-huyết gây phù nề, hoặc do chế độ ăn cữ muối lâu dài, hoặc do thuốc lợi tiểu loại thiazide hoặc do bệnh thần kinh đái tháo đường.
Hợp chất của muối ăn là ClNa, do chế độ ăn nhạt trong điều trị bệnh cao áp huyết làm chlor-huyết giảm, natri-huyết giảm dẫn đến hậu qủa giảm thẩm thấu huyết tương, làm tăng ngấm nước tế bào sẽ có rối loạn ở não và thận sinh chán không muốn ăn, ói mửa, kiệt sức, lú lẫn tâm thần, viêm bể thận, co giật chân tay như bệnh Parkinson. Khi cơ thể mất qúa nhiều muối sẽ vã mồ hôi, thử natri-huyết lúc đó dưới 135 mmol/l, nhất là ở người lớn tuổi dùng thuốc lợi tiểu không được theo dõi cẩn thận làm suy thượng thận, xơ gan, suy tuyến giáp vì phải tăng tiết hormone chống lợi tiểu.
9-Biến chứng hạ áp huyết ở thế đứng và thuốc hạ đường-huyết làm hại mắt:
Bệnh mắt do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do thuốc trị bệnh cao áp huyết và thuốc hạ đường huyết, máu không đủ lên nuôi não làm nhức nửa đầu ( migraine) kéo dài một thời gian làm mù bán manh ( mờ một bên ), hoặc mắt mờ như thấy sương mù trước mắt.
Hai loại thuốc trị cao áp huyết và trị bệnh tiểu đường dùng chung không hợp lý xảy ra tai biến nhẹ gây rối loạn dẫn truyền máu ở tim, khiến tình trạng mắt nhìn thấy sương mù lúc có lúc không, lúc nhìn rõ, lúc thấy mờ mờ, bệnh mắt kéo dài sẽ có dấu hiệu xuất huyết thủy tinh thể, viêm dây thần kinh thị giác, tăng áp lực sọ não ( nhức đầu ),phù não ( não có nước ), bệnh viêm thận nặng, đục thủy tinh thể.
10-Phù gai thị do thuốc giãn mạch :
Phù gai thị có nhiều nguyên nhân, nhưng thuốc giãn mạch là một nguyên nhân, khám đáy mắt để chẩn đoán bệnh tăng áp lực sọ não, khi thuốc giãn mạch làm tăng áp lực sọ não sẽ làm giảm thị lực, mù bán manh, ý thức u ám, tâm thần chậm, có nguy cơ tiến triển làm giảm đồng tử một bên, liệt dây thần kinh số 3, cơn ngủ thoáng qua ( narcolepsie ) sau đó là hôn mê ( coma ),tuột tiểu não làm vẹo cổ, rung giật nhãn cầu.
11-Tai biến mạch máu não do dùng thuốc không hợp lý :
Biến chứng cuối cùng của bệnh cao áp huyết là tai biến mạch máu não do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân dùng thuốc trong điều trị không hợp lý làm rối loạn thần kinh não, tăng giảm áp lực sọ não bất thường bởi các chất Cl, Na, Kali, Calci, Glucoza, Uric tăng giản trong máu, trong nước tiểu. Làm mạch máu khi căng khi giãn, bất ngờ làm đau nhức đầu kịch liệt kéo dài 24 giờ, không kịp tìm nguyên nhân qua xét nghiệm để biết chính xác do hóa chất nào trong cơ thể làm biến đổi sự căng mạch thái qúa, mà chỉ tạm thời cho dùng thuốc an thần giảm đau cũng không thể nào ngăn chặn kịp thời tai biến mạch máu não.
Các thể bệnh thường gặp trong tai biến mạch máu não như :
a-Xuất huyết não.
b-Khối máu tụ trong não
c-Nhũn não
a- Xuất huyết não :
Dấu hiệu lâm sàng :
Nhức nửa đầu nhất là về đêm, kèm theo chóng mặt ù tai, đó là bên sẽ bị xuất huyết, có thể chảy máu cam, xuất huyết võng mạc. Bệnh tiến triển nhanh qua hai giai đoạn :
Giai đoạn mới phát :
Đột ngột té ngã hôn mê, hoặc bắt đầu bằng nhức đầu dữ dội, ý thức giảm dần, ngủ mê 1-2 giờ sau không chữa kịp sẽ tiến triển sang giai đoạn hai .
Giai đoạn nặng gồm ba hội chứng :
Hôn mê sâu : Rối loạn chức năng tiếp ngoại và chức năng thực vật ( coma ), mặt tái nhợt, thở như ngáy, rối loạn nước và các chất điện giải, rối loạn cơ vòng, toàn thân bất động, mất phản xạ giác mạc và đồng tử.
Liệt nửa người : Bên liệt giảm trương lực cơ, liệt mặt thể trung ương. Liệt tay chân cùng một bên.
Rối loạn chức năng thực vật : Làm tăng tiết phế quản gây ứ nghẹt, khó thở, loạn nhịp thở, nhịp tim, tăng nhiệt, tăng áp huyết cao, mặt xanh hoặc đỏ, rối loạn dinh dưỡng, phù nề, đổ mồ hôi bên liệt, đa số 2/3 trường hợp tử vong trong vòng 10 ngày. Nếu qua khỏi, vẫn còn nguy cơ biến chứng nhiễm khuẩn hô hấp, tiết niệu, dinh dưỡng, nước và điện giải.
b-Khối máu tụ trong não :
Khi xuất huyết não, máu chảy ra không xâm nhập vào nhu mô não mà ứ đọng tại chỗ tạo thành một khối u do mạch qúa căng hoặc dị dạng mạch. Ở người trẻ còn khỏe mạnh, có triệu chứng liệt nửa người hoặc hôn mê ngắt quãng lúc tỉnh lúc mê, để lâu không chữa đúng và kịp lúc bệnh nặng hơn làm tăng áp lực sọ não, cần phẫu thuật thần kinh kịp thời tránh được tai biến mạch máu não.
c-Nhũn não :
Khi mô thần kinh thiếu máu nuôi dưỡng do các mạch máu bị tắc nghẽn, co thắt hay hẹp, tùy theo vị trí tắc nghẽn sẽ có những dấu hiệu lâm sàng để phân biệt như sau :
Rối loạn lời nói : Do thiếu máu nơi bán cầu não.
Rối loạn cảm giác : Do khu vực cảm giác thần kinh hư.
Hôn mê liệt nửa người : Do tắc mạch máu não, nhũn não xẩy đến từ từ, nếu không chữa kịp thời.
Qua giai đoạn cấp tính trong thời gian 10 ngày thoát khỏi tử thần, bệnh hồi phục dần, còn lại di chứng liệt cứng hoặc liệt mềm tay chân vô lực.
1.6- Nhận xét cách chữa của Tây y :
a-Ở thời kỳ chưa có máy đo áp huyết :
Cách chữa còn đơn giản, bệnh thuyên giảm từng phần, thuốc không gây rối loạn chức năng thần kinh nên không xẩy ra biến chứng .
b-Ở thời kỳ máy đo áp huyết ra đời :
Chưa thống nhất cách chữa, phương pháp chữa còn tùy thuôc vào tài năng và kinh nghiệm riêng của bác sĩ, vừa chữa gốc vừa dự phòng, vừa phải cho toa bào chế thuốc cho từng trường hợp, nên cách chữa an toàn không gây biến chứng hại chức năng thần kinh tạng phủ và não bộ.
c-Ở thời kỳ định bệnh bằng xét nghiệm :
Tây y đã phân biệt được bệnh cao áp huyết và những biến chứng do thuốc ở nhiều dạng khác nhau, nhưng có trường hợp tìm ra nguyên nhân bệnh qua xét nghiệm nhưng thị trường không có thuốc đặc trị nên cần phải có sự can thiệp của phẫu thuật, ngoài ra, sự phân quyền giữa bác sĩ tổng quát và bác sĩ chuyên khoa, nên biến chứng của bệnh cao áp huyết không được giải quyết kịp thời và đồng bộ, đôi khi cách chữa và cách cho dùng thuốc mâu thuẫn tương phản làm rối loạn chức năng thần kinh thêm trầm trọng, biến chứng do thuốc không biết trách nhiệm về ai. Mặt khác, nếu áp dụng công thức trị bệnh cao áp huyết theo hướng dẫn của y tế thế giới sẽ bị gò bó, không dám sáng tạo một cách chữa toàn diện theo như kết qủa xét nghiệm, vì thẩm quyền chuyên khoa của mình bị giới hạn. Vì thế một bệnh nhân có một bệnh cao áp huyết mà phải cần đến nhiều bác sĩ chuyên khoa khiến cho thuốc của mỗi người khác nhau làm cho phản ứng thuốc gây rối loạn trầm trọng thêm.
-Đứng trên lập trường của bác sĩ gia đình :
Mình cảm thấy bó tay khi không chữa được bệnh cao áp huyết, hình như chưa có loại thuốc nào hiệu nghiệm, an toàn, mặc dù xét nghiệm đã tìm được nguyên nhân, hoặc có những loại thuốc đặc trị lại không thuộc thẩm quyền cho toa sẽ dẫm chân lên lãnh vực chuyên môn của bác sĩ chuyên khoa.
-Đứng trên lập trường của bác sĩ chuyên khoa :
Mình chỉ chữa những biến chứng thuộc lãnh vực chuyên môn và cho những thuốc thuộc lãnh vực thuộc thẩm quyền chuyên môn của mình, việc theo dõi chữa trị bệnh cao áp huyết thuộc trách nhiệm của bác sĩ gia đình. Cho nên bệnh cao áp huyết có nhiều biến chứng khác nhau phải qua nhiều bác sĩ chuyên môn khác nhau , thuốc chữa cũng khác nhau gây ra phản ứng thuốc kỵ nhau của nhiều loại thuốc chuyên trị, nào là thuốc trị cao áp huyết, nào là thuốc trị tim mạch, nào là thuốc trị Parkinson, nào là thuốc phong thấp đau nhức, nào là thuốc bổ xương , nào là thuốc thần kinh, thuốc trầm cảm trị stress, nào là thuốc trị depresse, nào là thuốc ngủ, an thần, nào là thuốc trị tiểu đêm, nào là thuốc táo bón, thuốc cholestérol, thuốc trị tiểu đường... hàng chục loại thuốc vào cơ thể một lúc gây nguy hiểm do phản ứng hóa dược tạo ra lại ngoài trách nhiệm của bác sĩ gia đình.
-Đứng trên lập trường của bệnh nhân :
Họ cảm thấy bệnh cao áp huyết là bệnh nan y khó trị, họ hoàn toàn tin vào lời dặn và cách chữa của bác sĩ gia đình suốt một thời gian dài khi thuốc chưa tạo ra biến chứng, nhưng phản ứng thuốc về lâu dài tạo ra biến chứng, sau khi xét nghiệm mới biết mình có nhiều bệnh nan y phải uống thêm nhiều loại thuốc khác của bác sĩ chuyên môn, chính nó là nguyên nhân do nhiều thuốc làm rối loạn chức năng thần kinh gây nguy hiểm hơn, nhưng không còn cách lựa chọn nào khác, đành phải nghe theo lời của nhiều thầy thuốc một lúc để tự mình hại mình một cách âm thầm cho đến khi chết mới không phải uống thuốc, đem theo nỗi oan mà không ai phải gánh trách nhiệm.
2-Theo cách chữa của đông y :
Đông y cổ đại chia làm 13 khoa gồm Nội khoa, Nhi khoa, Tạp y khoa ( tổng quát ), Phong khoa, Sản khoa, Nhãn khoa, Yết hầu khoa, Nha khoa, Chỉnh cốt khoa, Chấn thương khoa, Án ma khoa, Châm cứu khoa, Chúc do khoa. Nhĩ khoa nằm trong nội khoa, bao gồm các bệnh chuyên môn của lục phủ ngũ tạng mà không chia ra chuyên khoa tim mạch, khoa thần kinh, khoa gan ruột, thận, phổi. . như tây y.
Riêng khoa châm cứu chuyên chữa và điều chỉnh mọi chức năng thần kinh bằng châm cứu trên huyệt đạo kinh mạch. Nội khoa và Nhi khoa tên gọi thời Trung quốc cổ đại là Đại phương khoa và Tiểu phương khoa, đều chuyên sử dụng dược thảo một cách thấu đáo tường tận. Mỗi loại thuốc lấy từ cây cỏ phải biết đầy đủ các yếu tố tính-khí-vị để chữa trị như vị thuốc mặn, ngọt, chua, cay, đắng để dẫn tính thuốc và khí thuốc vào tạng phủ nào, dẫn vào mạnh gọi là vị hậu , dẫn vào yếu chậm, từ từ gọi là vị bạc.. Tính thuốc theo bát pháp như ôn, bổ, tả, tiết, hãn, xuất, liễm, thông hay hòa.. Còn khí thuốc làm cho tăng hay giảm hàn hay nhiệt, thăng lên hay giáng xuống, liễm vào hay xuất ra,làm cho thổ mửa ra hay làm cho hạ khiến đi cầu, hay có tính giảm đau an thần, loại thuốc bổ hay tả khí hay huyết..
Nếu chữa bằng huyệt đạo châm cứu, căn bản có 365 huyệt, khi huyệt được kích thích cũng có đầy đủ yếu tố tính , khí và vị hậu hay bạc như thuốc cây cỏ, còn vị giác để dẫn tính khí của thuốc vào tạng phủ như mặn vào thận, ngọt vào tỳ, chua vào gan, cay vào phế, đắng vào tim thì không có như thuốc cây cỏ, mà phải dùng huyệt trên đường kinh theo quy tắc riêng ‘’ con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con ‘’.Cho nên dùng thuốc bên ngoài đưa vào cơ thể khi cơ thể gầy ốm, thiếu khí huyết không thể kích thích bằng huyệt, người ta gọi là phương pháp dùng ngoại dược, trong trường hợp cơ thể có da thịt, mập mạp khi bị bệnh, có thể không cần ngoại dược, chỉ cần kích thích huyệt tạo ra chất thuốc tương đương như ngoại dược mà không sợ có phản ứng phụ, người ta gọi là phương pháp dùng nội dược .
Do đó, bệnh cao áp huyết hoặc các biến chứng của bệnh cao áp huyết hay bất kỳ một bệnh nào khác cũng chỉ có một thầy thuốc nội khoa hoặc châm cứu có thể chỉnh lại mọi rối loạn bất thường của sự khí hóa của tổng thể ngũ hành tạng phủ để lập lại quân bình và tái tạo lại hệ thần kinh giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp thì mọi bệnh tật sẽ tự động hết.
Sử dụng ngoại dược ( các vị thuốc cây cỏ ) và sử dụng nội dược (các huyệt ), nếu phù hợp với nhu cầu cơ thể qua phương pháp Tứ chẩn, định ra được mạch bệnh trong 28 bộ mạch, và lý luận tìm nguyên nhân gốc là bệnh có thể chữa hết. Bệnh tật của mọi thời đại giống nhau, nên đông y không có bệnh danh cao áp huyết, đông y chỉ coi như là một chứng bệnh, như phong thấp là dấu hiệu của một chứng, tiểu đường là dấu hiệu của một chứng, nhức đầu là dấu hiệu của một chứng... đối với tây y là một bệnh danh. Chứng của đông y phải nói lên được tính chất bệnh của tạng phủ hay khí huyết như : can hàn, thận nhiệt, can hư hàn, thận thực nhiệt, can thực thận hư...
1- Điểm tương đồng :
Đông và tây y đều phải xét nghiệm để định bệnh trước khi chữa, một bên xét nghiệm bằng tứ chẩn, một bên xét nghiệm bằng máy móc dụng cụ.
2- Điểm dị biệt :
Đông y chữa bệnh ở gốc tạng phủ theo chức năng và theo hệ thống khí hóa của ngũ hành chung của lục phủ ngũ tạng và chữa vào chứng bệnh thuộc hệ thống khí hóa. Còn tây y chữa trực tiếp vào cơ sở bị tổn thương thực thể bằng mổ xẻ như ống dẫn máu tắc nghẹt, van tim, tắc mạch máu não, hoặc chữa bằng thuốc bào chế sẵn theo bệnh danh như đường trong máu, mỡ trong máu, nhức đầu, căng mạch làm giãn mạch không chữa vào nguyên nhân gốc như đông y.
Đông y cũng có bệnh danh như bệnh cao áp huyết đơn thuần, bệnh cao áp huyết tiểu đường, bệnh cao áp huyết phong thấp, bệnh cao áp huyết phong đàm, hàn đàm, nhiệt đàm, bệnh cao áp huyết suy hô hấp, cao áp huyết suy thận, cao áp huyết suy tim, cao áp huyết xơ gan, cao áp huyết thai sản, cao áp huyết tâm lý thần kinh.. ..Tất cả các loại cao áp huyết ấy đều phải tìm nguyên nhân quy về chứng do tạng phủ nào làm ra. Biết được chứng bệnh ở tạng phủ nào thì mới có cách chữa là đối chứng trị liệu .
Bệnh cao áp huyết theo đông y định bệnh gồm các chứng như là Dương cang can nhiệt chứng, âm hư dương can chứng, can thận âm hư chứng, âm dương lưỡng hư chứng, can khí uất kết chứng, can uất tỳ hư chứng, can phong nộI động chứng, can khí nghịch chứng, can hỏa thượng viêm chứng, can dương thượng kháng chứng.. mỗi chứng và mỗi bệnh danh do chứng nào làm ra bệnh đều có trong danh mục bệnh của y học đông phương cổ đại, có chỉ dẫn những dấu hiệu lâm sàng khác nhau và phương dược căn bản để chữa khác nhau bằng nội ngoại dược. Nếu thầy thuốc không muốn áp dụng theo toa căn bản đã tích lũy kinh nghiệm nhiều đời vì hai lý do, một là chưa hiểu cách phối hợp kỳ diệu của cổ nhân tại sao phải phối hợp như vậy, hai là khi dùng toa căn bản để biết vị thuốc nào trong toa là chính dùng làm quân, thần, còn tá, sứ có thể phải thay đổi gia giảm cho phù hợp với điều kiện sức khỏe của bệnh nhân, cho nên khi đối chứng trị liệu lâm sàng giỏi thì phải thay đổi thành phần thuốc luôn luôn cho hợp từng giai đoạn tiến triển của bệnh, sau mỗi lần tái khám bằng tứ chẩn để gia giảm phương dược cho đến khi khỏi bệnh.
Hiện nay bên Trung Quốc cũng như Việt Nam, một thầy thuốc được đào tạo ra phải am tường cả đông lẫn tây y, và ngoài thuốc bắc phải dùng thang mỗi khi bắt mạch, đông y phải bào chế sẵn thuốc thành phẩm theo dạng tây y theo tiêu chuẩn của tây dược để bác sĩ có thể sau khi khám xét một căn bệnh và viết toa cho thuốc được cả hai loại đông tây dược.
Thay phần kết luận :
Nếu chỉ với mục đích phục vụ sức khỏe cho con người một cách ưu việt vẹn toàn, cả hai ngành đông tây y được liên kết trong chương trình đào tạo thầy thuốc tương lai trong tinh thần cởi mở, hòa hợp trong cách khám, chữa và dùng thuốc được chọn lựa tối ưu sẽ giảm thiểu được các phản ứng phụ cho bệnh nhân lại đỡ tốn kém khi xét nghiệm về cả thời gian, tiền bạc, và kết qủa chữa bệnh lại nhanh chóng, sức khỏe mau bình phục, đó là một may mắm cho bệnh nhân hơn là một phương pháp riêng lẻ đối chọi nhau như hiện nay làm cho bệnh nhân phải chịu nhiều thiệt thòi oan uổng trong những ca bệnh nan y .
doducngoc