Thần là một trong ba yếu tố tinh-khí-thần dùng để lý luận trong việc khám và chữa bệnh theo phương pháp cổ truyền của đông y.
Đối với đông y, thần đóng vai trò quan trọng nhất trong việc chữa bệnh. Việc nghiên cứu thần được lập thành hệ thống, và đã ứng dụng, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc chữa trị cả hàng ngàn năm, xây dựng được một hệ thống kinh mạch huyệt đạo căn bản gồm 365 huyệt, mỗi huyệt tạo ra một phản ứng chức năng thần kinh, nhưng khi phối hợp huyệt thì lại còn phong phú đa dạng hơn giống như cách phối hợp các thành phần hóa chất để tạo ra một phản ứng hóa học nhất định nào đó. Cho nên các huyệt này vừa để khám bệnh, vừa để chữa bệnh mà không cần phải xét nghiệm nữa, vì khi xét nghiệm hoặc chữa bệnh kết qủa đều giống nhau đối với một huyệt, đông y gọi là hiệu năng chữa trị của huyệt đã được đúc kết kinh nghiệm rất phong phú, vì vậy người xưa nói rằng ‘cái gì chưa biết mới cần phải thử ,cái gì đã biết rồi khỏi cần phải thử nữa’..
Hệ thống cấu tạo thần trong đông y :
Về cơ sở vật chất :
Là bộ óc, tế bào não, trung khu thần kinh, dây thần kinh thông qua cột sống liên lạc với tạng phủ, da, thịt, xương, gân...đến tất cả mọi chỗ của cơ thể.
Về chức năng :
Ngoài chức năng của ngũ quan, của trung khu thần kinh, của lục phủ ngũ tạng, của hệ nội tiết, hệ miễn nhiễm, hệ hô hấp, dinh dưỡng, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, hệ giao cảm, vận động, phản xạ, hưng phấn, ức chế.. mà khoa học đã biết, còn có những chức năng khác, thường được dùng trong phép chữa bệnh bằng huyệt gọi là hệ nội dược .
Con người, trong cơ thể có chứa sẵn các hóa chất mà từng giây từng phút vẫn trao đổi phản ứng hóa học gọi là phản ứng sinh học tự động để điều khiển mọi chức năng cần thiết cho sự sống, ta tạm gọi là Hệ điều hành và kiểm soát chức năng sinh học tự động. Thí dụ trong trường hợp bệnh tiểu đường hay bệnh còi xương chẳng hạn, khi phân chất thành phần dinh dưỡng trong thực phẩm ăn uống hàng ngày đều có đủ, nhưng chức năng yếu, không hấp thụ được 100% mà chỉ được 20-30% chất phosphate, calcium trong bệnh còi xương, và hoàn toàn không hấp thụ chất đường, cho nên dư thừa chất vôi, chất đường trong nước tiểu, trong máu. Như vậy ta phải hiểu chương trình điều hành chất vôi và chất đường của THẦN đã yếu hay hỏng cho nên không thu nạp và chuyển hóa thành chất bổ nuôi cơ thể. Tuy nhiên, nếu ta không ăn chất ngọt thì cơ thể thiếu đường để nuôi bắp thịt và cơ tim sau sẽ bị suy tim làm mệt, ngược lại, nếu ăn nhiều chất vôi chữa bệnh còi xương mà khả năng hấp thụ ít không qúa 30% ,phần còn lại sẽ làm mệt thêm chức năng thải lọc của thận, sau sẽ làm cho thận yếu dẫn đến bệnh sạn thận.
Người chữa bệnh bằng huyệt nội dược, giống như dược sĩ bào chế thuốc ngoại dược, biết cách sử dụng máy vi tính của bộ não, lập ra một quy trình điều hành nội dược mà cơ thể có sẵn thông qua cách chọn huyệt, làm tăng hệ thống hấp thụ và chuyển hóa, lúc đó cơ thể sẽ hấp thụ và chuyển hóa được chất đường và chất vôi..Hệ thống sử dụng huyệt để chữa bệnh gọi là hệ thống nội dược bán tự động ( système endocrine ) vì phải nhờ đến thầy thuốc kích thích huyệt. Nếu thầy thuốc sử dụng huyệt sai, giống như thảo chương cho máy điện toán sai máy không điều hành được. Muốn điều chỉnh được sự khí hóa đúng làm cho cơ thể khỏe mạnh, thầy thuốc phải hiểu rõ các chức năng của thần trong việc khí hóa của Tinh-Khí-Thần., của âm dương ngũ hành của tạng phủ mới có thể chữa được gốc bệnh.
TINH : Là thức ăn có âm, có dương, có ngũ hành, có hàn nhiệt, hợp với tạng phủ nào, không hợp với tạng phủ nào. Thức ăn âm làm cho cơ thể mát sinh huyết, thức ăn dương làm cho cơ thể ấm,nóng sinh khí. Nếu ta bị bón là đã ăn nhiều chất dương, nếu ta bị bệnh tiêu chảy là đã ăn nhiều chất âm. Đông y phân loại thức ăn có chất ngọt vào tỳ, chất cay vào phế, chất mặn vào thận, chất chua vào gan, chất đắng vào tim. Thức ăn lúc nào cũng phải đủ tính, khí và vị, không dư không thiếu gọi là quân bình sự khí hóa ngũ hành.
KHÍ : Ngoài sự hít thở và vận động để tạo khí kích thích sự tuần hoàn của khí và huyết, còn có khí âm dương ngũ hành của mỗi tạng phủ có chức năng riêng ,đông y gọi Phế khí là táo khí, Thận khí gọi là thủy khí ,Can khí là phong khí, Tâm khí là hỏa khí, Tỳ khí là thấp khí. Khí của tâm, can, tỳ, phế, thận ,gọi chung là âm khí. Khí của Tiểu trường là hỏa khí ,Đởm khí là phong khí, Vị khí là thấp khí, Đại trường khí là táo khí, Bàng quang khí là thủy khí, gọi chung là dương khí. Thần điều hòa được đúng các khí, đúng các bộ vị của tạng phủ hoạt động tốt, đó là chức năng tự động của thần. Mỗi một chức năng của tạng phủ bao gồm chức năng nuôi dưỡng, phát triển, bảo vệ cơ sở bên trong và bên ngoài tạng phủ. Thí dụ như bao tử bị loét, là cơ sở vật chất bị tổn thương thực thể, nó phải báo cho thần lập kế hoạch và thực hiện sửa chữa, khi thực thể bị co thắt hoặc thòng, nó cũng phải báo cho thần điều chỉnh ,khi ăn ít bao tử nhỏ lại, khi ăn nhiều bao tử cần phải lớn mạnh hơn thần cũng phải dự trù kế hoạch phát triển và điều tiết những dịch chất của gan, mật, tỳ, vị ở giữa hai lớp thành bao tử cho phù hợp với những thay đổi của cơ thể.
Chức năng ngoài của tạng phủ, Tây y không thể thấy được nhưng rất quan trọng. Chẳng hạn như Đông y nói bao tử nhiệt ,khi Tây y xét nghiệm không thấy tổn thương thực thể nên không cần phải chữa bao tử, nhưng đối với đông y, bao tử nhiệt làm chân răng lỏng, trồi lên, đau răng, viêm chân răng sẽ phải nhổ ,nếu bao tử bị nhiệt một thời gian lâu sẽ bị bệnh loét bao tử.., còn đông y chữa cho bao tử hết nhiệt lúc đó các triệu chứng bệnh trên sẽ hết, hoặc khi bao tử bị đầy hơi đưa lên họng thành ợ hơi, hôi miệng, cơ thể có huyệt tạo ra chức năng hạ hơi, giáng khí. Như vậy mỗi huyệt có nhiều chức năng để trị bệnh, gọi là đặc tính của nội dược., có tính, khí và vị riêng . Khi tác động vào huyệt là tác động trực tiếp vào hệ thần kinh để tạo ra một vị thuốc thiên nhiên có sẵn trong cơ thể nhờ vào sự điều chỉnh hormone như ý muốn của huyệt để điều chỉnh khí phong, hàn, thử , thấp, táo, nhiệt, điều chỉnh về khí, về huyết, điều chỉnh khai thông, họặc đóng giữ lại ,điều chỉnh sự vận động cơ bắp, kinh mạch, chữa thần kinh, giảm đau, tăng sức đề kháng, điều chỉnh hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, tăng cường miễn nhiễm ,điều chỉnh nội tiết, tăng giảm hồng cầu, bạch cầu, gỉải độc, chữa và điều chỉnh chức năng bên trong và bên ngoài tạng phủ, phát triển và bảo vệ da, thịt ,gân, xương..điều chỉnh thần kinh vận động, cảm giác của tứ chi, của đầu, mặt, mắt, tai, mũi lưỡi, răng họng..Tất cả các huyệt giống như một hóa chất, một nguyên tố hóa học ,người dược sư có thể phát minh ra đủ các loại thuốc ,nhưng khác nhau ở chỗ thuốc ngoại dược đi vào cơ thể để chữa bệnh, nếu cơ thể không chấp nhận hoàn toàn như ý muốn của người bào chế sẽ tạo ra phản ứng phụ, cơ thể sẽ phải mất đi một số năng lượng để loại bỏ những chất không cần đôi khi còn làm hại cơ thể gọi là độc tố, ngược lại tác động lên huyệt để cơ thể tự động sản xuất ra thuốc gọi là nội dược tùy vào cách phối hợp huyệt của thầy thuốc. Cơ thể mạnh hay yếu đều nhờ vào sự biến đổi của khí gọi là sự khí hoá ,sự khí hóa là vô hình nhưng kết qủa là hữu hình ,vì khí biến đổi từ dinh dưỡng thuộc tinh, từ hơi thở ,sự vận động ,và từ không khí ,thời tiết thuộc khí ,và khí cũng biến đổi theo tâm lý tình cảm thuộc thần. Khi tinh-khí-thần hòa hợp cơ thể được khỏe mạnh thì ai cũng có thể nhìn thấy .
THẦN :Nói đến thần là phải liên quan đến ý, đông y thường nói ‘ Ý ở đâu, khí ở đó ,khí ở đâu huyết cũng ở đó .’ Cho nên định bệnh để chọn huyệt chữa rất quan trọng, và phương pháp chữa cho có hiệu qủa cũng quan trọng không kém. Thí dụ bệnh mất ngủ kinh niên, theo đông y có hàng chục nguyên nhân khác nhau, sẽ có hàng chục cách chữa khác nhau. Ở đây chúng ta xét về khí huyết ở bộ não ,nếu bộ não thiếu khí huyết để nuôi não, người sẽ bần thần mệt mỏi nên khó ngủ, huyệt kích thích phải ở trên đầu để cho ý phải tập trung trên đầu, theo nguyên tắc ý ở đâu thì khí huyết ở đó, cho nên khí huyết đã lên đầu để nuôi não. Ngược lại, khi bị bệnh cao áp huyết, sung huyết não, bộ não tích tụ nhiều huyết nhiệt làm đầu nóng, rối loạn thần kinh gây mất ngủ, đông y sẽ chọn huyệt ở dưới chân để kích thích đem khí huyết xuống chân ,giải tỏa sự sung huyết trên đầu..Do đó, tùy theo nguyên nhân mất ngủ để chọn huyệt nội dược thích hợp, nếu mất ngủ do ăn no trước khi đi ngủ theo thói quen thì nguyên nhân do chức năng bao tử, nếu uống thuốc trị bệnh mất ngủ mà vẫn không ngủ được là do uống nước nhiều trước khi đi ngủ khiến cho đêm phải thức giấc để đi tiểu thì nguyên nhân do chức năng thận, mất ngủ ở phụ nữ trong thời kỳ tiền mãn kinh là do xáo trộn hormone, có loại mất ngủ do đau nhức, do tâm lý vui qúa, buồn qúa, lo qúa ,sợ qúa, giận qúa..
Kết qủa chữa bệnh lâu hay mau đều lệ thuộc vào thần ,mọi chức năng hoạt động trong cơ thể đều do thần điều khiển. Thần chia làm ba loại :
Loại bẩm sinh :
Là bộ thần kinh hoàn hảo hay thiếu sót gồm cả bộ lưu trữ và bộ nhớ, cho nên có người thông minh, có người khờ dại ,có người có sức đề kháng mạnh, có người yếu hay bị bệnh lâu khỏi..
Loại do thói quen :
Ảnh hưởng bởi phong tục tập quán sinh hoạt trong gia đình, xã hội, môi trường, hoàn cảnh địa dư, văn hóa, chính trị, tôn giáo, nên tâm lý tình cảm, quan điểm, có phản ứng nhanh chậm khác nhau.
Loại tri thức :
Do học hỏi huân tập thông qua giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mới sinh ra phân biệt, thành kiến, cho nên có người thích đông y, có người tin và thích tây y.
Dù sao, qua kinh nghiệm của đông y, mọi sự thay đổi của tinh-khí-thần đều làm thay đổi hệ giao cảm và hệ vận động của thần kinh ,sẽ làm thay đổi tỷ lệ hormone, như vậy là làm thay đổi luôn sự hoạt động của tế bào trong cơ thể. Những tế bào thần kinh của lục phủ ngũ tạng làm việc liên kết với nhau từng giây từng phút để bảo đảm bộ ba tinh-khí-thần giữ đúng tiêu chuẩn hòa hợp sự khí hóa của cơ thể được tốt. Nếu có bất cứ một sự xáo trộn nào của tinh, khí , thần, đều có ảnh hưởng đến tạng phủ :
Ảnh hưởng do Tinh (tinh chất của thức ăn) :
Tinh chia làm hai loại mùi và vị .:
Xét về vị :
TÂM ưa đắng, nhưng đắng qúa hại tim, cho nên tâm hư cần uống thuốc có chất đắng, tâm thực là dư chất đắng phải bớt đi bằng cách không nên ăn những chất có vị đắng hoặc tả tâm thực phải dùng chất mặn, hoặc bổ thận thủy để khắc chế tâm hỏa theo luật sinh khắc ngũ hành.
GAN ưa chua, nhưng chua qúa hại gan, chất chua đối với tây y là vitamine C, nhưng đông y lúc nào cũng phải xét đến tính chất âm dương của một chất về khí, tính và vị, cho nên tục ngữ đã có câu nói về tính : cam hàn, quít nhiệt, bưởi thanh. Nếu một bệnh nhân thân nhiệt cảm thấy lạnh mà cần phải dùng đến vitamine C để tăng cường sức đề kháng phải dùng quít không được dùng cam người sẽ lạnh thêm làm trở ngại sự tiêu hóa, các dưỡng trấp không đủ nhiệt lượng để hóa huyết sẽ biến thành đờm. Nếu bệnh nhân cảm thấy nóng bức, cổ họng khô khát, ho khan, cần phải dùng Vitamine C ở cam làm giảm nhiệt. Nếu cơ thể cần bớt chất béo loại trừ cholestérol mà không sợ phạm hàn, phạm nhiệt nên dùng Vitamine C ở bưởi.
TỲ ưa ngọt,nhưng ngọt qúa lại hại tỳ. Khi Tỳ hư cần phải bổ tỳ bằng chất ngọt để nuôi tim và cơ bắp, tỳ thực là dư chất ngọt phải cữ ăn ngọt ,nếu không chất ngọt dư thừa sẽ làm tăng men tiêu hóa ,tăng nhiệt ở bao tử và lá mía sẽ sinh bệnh tiểu đường, loét bao tử ,lở da, thấp chẩn ,eczéma ,sưng đau đầu gối, thấp khớp, mục xương.
PHẾ ưa cay ,chất cay giúp phế mở lỗ chân lông bài tiết mồ hôi, cho nên khi ăn cay chúng ta cảm thấy nóng da đỏ mặt và xuất mồ hôi, nhưng cay qúa sẽ hại phế mất khả năng điều tiết lỗ chân lông làm tiêu chảy, mất nước, chảy nước mắt, làm hại gan, áp huyết tăng..
THẬN ưa mặn, vì thận cần nước, chất mặn giữ nước để làm quân bình tỷ lệ đường-muối-nước cho cơ thể, nhờ nước ở thận gọi là thủy khí dùng để điều hòa hỏa khí, thấp khí, phong khí, hàn khí, táo khí, nhờ nước thận mới lọc máu ,giải độc, giải nhiệt có hiệu qủa, nhưng nếu dư nước cơ thể sẽ phù thủng, tiêu chảy, bụng báng, xệ ruột (hernie ), khúc ruột nơi bẹn bên trái phình to chặn vào động mạch đùi háng làm chân trái yếu, tê, phù, sưng đầu gối, nơi khúc ruột ấy mất sự co bóp để tống phân ra ngoài bệnh nhân tưởng lầm là bị bệnh táo bón ,phân lưu trữ lâu ngày làm thối khúc ruột sẽ thành ung thư ruột.
Xét về mùi :
Mùi khê, khét vào tâm, trên quan điểm bổ-tả , thức ăn có mùi khê khét vừa ,còn tồn tính thì còn bổ, khê khét qúa mất hết chất bổ mà cố ăn vào sẽ hại cho tim mạch.( ăn thịt nướng cháy già lửa quá sẽ hai tim ).
Mùi hôi thối, úa của thực phẩm hay của môi trường làm hại gan.
Mùi thơm của thức ăn kích thích tỳ ăn ngon, nhưng càng cao lương mỹ vị qúa lại hại tỳ sinh chán ăn, ăn không tiêu.
Mùi tanh vào phế, khi phổi yếu không đủ oxygène để chuyển hóa dưỡng trấp thành huyết ,cần phải bổ bằng chất tanh ,như ăn cá, ăn uống có thêm chất kim loại như chất sắt trong thực phẩm hoặc thuốc uống để phục hồi sự khí hóa của phổi.
Mùi khai thuộc thận, nước tiểu trong, không có mùi khai là chức năng của thận yếu không lọc rút được cặn bã và độc tố trong cơ thể ,cần phải ăn loại thực phẩm có nhiều chất vôi, phosphore, đồ biển thích hợp, nhưng qúa bổ thành dư thừa làm thận bị đóng sạn.
Ảnh hưởng do khí :
TÂM ưa hỏa khí để tim đủ sức nóng tạo nhiệt cho cơ thể, nhưng ăn những chất kích thích nhiều hỏa qúa, hoặc do môi trường làm việc, khí hậu, thời tiết nóng nực qúa làm mệt tim ,khó thở, tăng áp huyết.
CAN ưa phong khí, vì can tàng huyết,cần phải lay động nhẹ như thở để trao đổi oxy cho máu được tốt, nhưng ăn nhiều chất chua, các loại mắm lên men, hút thuốc lá, uống rượu, hoặc các loại thức ăn có nhiều độc tố làm gan phải co bóp thải độc mạnh, đông y gọi là can phong nội động, chẳng may lại gặp trùng hợp ngoại phong xâm nhập cơ thể, tạo áp lực huyết trong gan sung lên não làm đứt mạch máu não sẽ thành tê liệt, bán thân bất toại.
TỲ ưa thấp khí là khí vừa nóng vừa ẩm để tạo ra men tiêu hóa làm tiêu hóa thức ăn,nhưng thấp khí nhiều qúa làm lở da, hại thịt, cơ bắp, nếu gặp môi trường ẩm thấp bên ngoài ,hoặc khí hậu ẩm thấp là điều kiện dễ phát sinh vi trùng, vi khuẩn, thức ăn dễ lên men ,hư thối ,hoặc cơ thể dư chất đường dễ lên men sinh ra nhiều thấp khí khiến cơ thể mệt mỏi nặng nề. Chức năng của tỳ là dẫn các dịch chất lưu thông khắp cơ thể, nếu tỳ có qúa nhiều thấp khí sẽ làm lưu thông bị đình trệ, tắc nghẽn, sinh đau nhức cơ bắp, nhức mỏi, phong thấp, nếu tỳ không dẫn huyết để nuôi xương cốt sẽ sinh bệnh thấp khớp, khô xương, chân tay nặng nề, phù thủng
PHẾ ưa táo khí, là khí khô ráo, không nóng qúa làm teo phổi gây khó thở, không lạnh qúa làm phổi có nhiều hơi nước gây thở khò khè.Táo khí của mùa thu làm cây cỏ thu mình lại nó có tính chất co rút ,nên phổi có tính chất co rút tự động ,khi hít vào phổi nở ra,khi không hít vào thì phổi tự động co rút lại để đẩy khí ra ngoài gọi là thở ra. Đại trường liên quan đến phế cũng thuộc táo khí có tính chất co rút cặn bã của thức ăn, nước thấm qua thành ruột vào bàng quang thành nước tiểu, còn lại cặn bã trong ruột thành phân. Nhưng nếu táo khí qúa nhiều trong phổi sẽ thành bệnh teo phổi ( phế nuy),còn táo khí nhiều trong ruột già làm phân khô cứng sẽ bị táo bón.
THẬN ưa hàn khí, là thích khí mát, thận cần nước để điều hòa lượng đường, muối, vôi, mỡ có trong cơ thể để giữ thân nhiệt bình thường, để lọc và giải độc, nếu thận nóng sẽ đi tiểu dắt và đỏ ,nếu thận hàn sẽ đi tiểu nhiều, nếu thận lọc tốt nước tiểu mầu hơi vàng, nếu thận hư yếu không lọc, nước tiểu có mầu trắng, thận còn có chức năng điều hòa tam tiêu để chuyển vinh khí, vệ khí đi khắp cơ thể qua đường cột sống gọi là thận dương.
Ảnh hưởng do thần :
Lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ) nhiễm lục trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) đều có thể làm thay đổi thần ,nhưng về bệnh tật, đông y chú trọng đến ba yếu tố chính là tâm lý, mầu sắc và âm thanh.
TÂM ưa mầu đỏ, sinh vui, hay cười .Tục ngữ có câu ‘ cườI như điên’, vì tâm tàng thần, khi vui qúa mất kiềm chế cử chỉ và hành động nên gọi là điên.
CAN ưa mầu xanh, ưa giận, giận qúa trớn hay la hét.Tục ngữ có câu ‘giận căm gan ,hoặc giận bầm gan tím ruột’, gan chủ gân, nên mỗi khi giận làm run gân chân tay. Gan tàng hồn, khi bị bệnh gan nặng, bệnh nhân như người mất hồn.
Tỳ ưa mầu vàng, Tỳ tàng ý nên ưa suy tính, lo nghĩ, nếu được thỏa mãn thường hay hát, nếu lo tính chưa xong thì lo ăn mất ngon, ngủ mất yên.
PHẾ ưa mầu trắng, dễ mẫn cảm với buồn, buồn hay thở dài ,buồn qúa hóa khóc, nếu chỉ thở ra nhiều hơn hít vào làm teo phổi, giảm oxy trong máu làm suy thần kinh, hại tế bào, thiếu oxy trong não sinh ra trăm bệnh, đông y có câu ‘phế tàng phách, nếu phách lạc thì hình suy ‘,phụ nữ có bệnh buồn chán hay thở dài trong nhiều năm làm oxy và máu bị tắc tuần hoàn ở vú sẽ thành bệnh ung thư vú.
THẦN ưa mầu đen, dễ mẫn cảm với sợ hãi thành hay rên, đông y có câu ‘ sợ phát run, hoặc sợ vãi đái ‘,như vậy sợ làm ảnh hưởng đến thận.Thận tàng tinh,người bị bệnh sợ ám ảnh làm mất chức năng khí hóa của thận là sinh tinh hoá tủy để nuôi tế bào não, nuôi cột sống ,xương cốt,, khi nguyên khí mất ,da mặt đổi mầu xạm đen hoặc mốc, khi sợ hãi qúa sẽ tổn thương đến thận. Người bị bệnh thận đêm ngủ thường hay rên. Bệnh mãn tính làm cơ thể suy nhược mất thần, nhút nhát, nói yếu hơi ,để lâu không chữa làm hại gan da mặt đổi sang mầu hơi xanh lẫn đen tái.
Như vậy THẦN bao gồm tất cả mọi sự điều hành của cơ thể để nuôi dưỡng, phát triển, và bảo vệ cơ thể thông qua hệ thần kinh dẫn truyền và phản xạ để điều tiết hệ nội tiết (système endocrine) giữ cho bộ ba tinh-khí-thần về cơ sở và chức năng lúc nào cũng được quân bình hòa hợp, nếu con người không hiểu cấu trúc của nó, ăn uống thuốc men sai lầm, hít thở yếu kém,và tâm lý thần kinh bất bình thường, đã vô tình phá vỡ trật tự khiến bộ ba tinh-khí- thần mất ổn định sẽ làm cho cơ thể bị bệnh.
doducngoc