Thứ Năm, 7 tháng 10, 2010

CCĐY 2 – TÌM HIỂU PHƯƠNG PHÁP KHÁM BỆNH, ĐỊNH BỆNH VÀ CHỮA BỆNH CỦA ĐÔNG Y

ĐÔNG Y HỌC một khoa học tổng hợp 4 bộ môn, gồm khoa học quan sát, khoa học thử nghiệm, khoa học thống kê và khoa học thực nghiệm. Cả bốn môn khoa học này là một mắt xích có liên quan cái nọ với cái kia đều nhờ vào một tiêu chuẩn thống nhất độc đáo, như một kim chỉ nam hướng dẫn mọi phát minh tìm tòi, học hỏi về khoa đông y học gọi là BÁT CƯƠNG .

BÁT CƯƠNG là 8 yếu tố mẫu mực, chính xác dùng làm cương lĩnh trong phương pháp khám bệnh, định bệnh để tìm nguyên nhân gây bệnh và chữa bệnh của đông y, đó là yếu tố Âm-Dương, Hư-Thực, Hàn- Nhiệt, Biểu-Lý, trong đó yếu tố âm tượng trưng cho huyết và các kinh âm thuộc tạng, yếu tố dương tượng trưng cho khí và các kinh dương thuộc phủ.

Về phần khám bệnh, đông y dùng phương pháp tứ chẩn cổ điển là Vọng, văn, vấn, thiết (nhìn, nghe, hỏi, bắt mạch ), trong đó vọng và văn ( nhìn và nghe ) thuộc về khoa học quan sát. Quan sát để thu nhặt những dữ kiện có được bằng những dấu hiệu lâm sàng do nhìn và nghe, gom góp lại thành hệ thống rồi thống kê sắp vào tiêu chuẩn bát cương. Khi bắt mạch hay sờ nắn hay khám trên da, trên tay chân, trên huyệt cũng cần phải có phương pháp thuộc về khoa học thử nghiệm, những kết qủa thử nghiệm này cũng là những dữ kiện cần thiết để sắp vào tiêu chuẩn bát cương. Sau đó phân tích theo bát cương trên lâm sàng, so sánh với những kết qủa đã có giá trị tích lũy được hàng ngàn năm của cổ nhân trong môn bệnh chứng lâm sàng học, nếu có điều gì còn nghi ngờ thắc mắc cần phải hỏi thêm bệnh nhân , khi đặt câu hỏi ( gọi là vấn ) cũng phải theo phương pháp để thu nhặt thêm dữ kiện sắp loại theo bát cương, thuộc về khoa học thống kê. Như vậy phương pháp khám bệnh của đông y cũng đã bao gồm ba môn khoa học là quan sát, thử nghiệm và thống kê.

Về phần định bệnh, là môn khoa học thống kê, sau khi gom lại các dữ kiện của phương pháp tứ chẩn thì sắp lại thành kết luận những diễn biến bệnh tình và so sánh nó thuộc vào một chứng bệnh nào trong hàng ngàn chứng bệnh đã được thống kê và liệt kê vào trong tự điển bệnh chứng của đông y .

Về phần chữa bệnh, là môn khoa học thực nghiệm, giống như toán học, phương pháp khám bệnh là chọn nhặt dữ kiện theo một tiêu chuẩn đề ra là bát cương giống như một phương trình. Phần định bệnh giống như đặt phương trình, có nghĩa là thống kê các dữ kiện dấu hiệu bệnh nó thuộc về những cương nào, mang tên là chứng bệnh gì và phần chữa bệnh là làm những gì ngược lại với chứng để lập lại sự quân bình gọi là đối chứng trị liệu tức là giải phương trình của một bài toán. Nếu phần chọn nhặt dữ kiện theo tiêu chuẩn là phương trình mà chọn ẩn số sai, đặt phương trình sẽ sai thì giải phương trình cũng sai. Bởi thế phần chữa bệnh đúng và có kết qủa hoàn toàn nhờ vào phần định bệnh. Định bệnh tìm ra chứng bệnh. Chữa bệnh là cách đi ngược với chứng gọi là đối chứng trị liệu để lập lại quân bình khí hóa của tổng thể ngũ hành. Định bệnh đúng phải nhờ vào cách khám bệnh bằng phương pháp tứ chẩn để thu nhặt đầy đủ dữ kiện không được bỏ sót. Trước hết chúng ta nghiên cứu qua về cách khám bệnh theo tứ chẩn của đông y.

PHẦN MỘT:   PHẦN KHÁM BỆNH

Nếu có một bệnh nhân khai bệnh :’’ Tôi hay bị mệt, không biết là bệnh gì, nhờ thầy khám và chữa cho ‘’.

Lời khai bệnh trên qúa đơn gỉản, rất khó chẩn đoán. Có thể thầy thuốc phải đặt trong đầu nhiều giả thuyết, mỗi giả thuyết của một loại bệnh sẽ có nhiều triệu chứng bệnh khác nhau ,và cần phải đặt ra nhiều câu hỏi với bệnh nhân mới tìm ra được nguyên nhân, đôi khi cũng chưa chắc chắn. Cho nên muốn tìm ra được nguyên nhân, Tây y cần phải có những số liệu rõ ràng của các kết qủa xét nghiệm như đo tim mạch, chụp X-quang, siêu âm, thử máu, phân, nước tiểu..

Còn đối với Đông y cũng cần xét nghiệm như Tây y, nhưng không bằng máy móc mà xét nghiệm tìm ra sự bất bình thường của cơ thể bằng Phương PhápTứ Chẩn là Vọng chẩn, Văn chẩn, Vấn chẩn, Thiết chẩn để tìm ra được tạng phủ tổn thương thực thể hoặc xáo trộn chức năng.

Phần quan sát là nhìn ( vọng )và nghe (văn ) thuộc hai phần trong bốn tiêu chuẩn khám bệnh theo tứ chẩn của đông y là vọng ,văn, vấn, thiết.

  I-  QUAN SÁT NHÌN BẰNG MẮT  (VỌNG CHẨN)

Là quan sát hình, khí, thần, sắc của bệnh nhân.

Phải quan sát bằng mắt để tìm ra được những dấu hiệu khác lạ về hình thể, khí lực ,tinh thần và mầu sắc ( Hình, khí, thần, sắc ) của bệnh nhân đã hiện ra trên các bộ vị ở cơ thể khi có bệnh. Chỉ cần ghi nhận những gì mình thấy được từ trên xuống dưới đầy đủ để có thể chẩn đoán bệnh dễ dàng chính xác.

Hình: Là quan sát thân thể bệnh nhân khỏe mạnh hay yếu, mập hay gầy.. Khí :Là quan sát mặt, da, tai, tóc, móng, răng.. còn tươi nhuận, mềm hay khô cứng, lỗ chân lông kín hay hở.,.

Thần : Là quan sát tinh thần bệnh nhân còn vui vẻ hoạt bát hay chậm chạp ,hoặc lo buồn đau đớn, cáu giận.

Sắc: Là quan sát mầu sắc hiện ra ở mặt ,da, tay chân, sáng hay tối, đậm hay nhạt, ở mắt xem huyết đủ hay thiếu, mầu sắc hiện ra ở tai, ở lưỡi và bộ vị trên mặt có thuận hay nghịch với ngũ hành. Mầu sắc trong phần quan sát chẩn đoán bệnh trong đông y được quy định như sau:

  • Mầu đỏ : thuộc hỏa, tượng trưng cho khí huyết nhiệt, cho tim mạch và tiểu trường.
  • Mầu vàng : thuộc thổ, tượng trưng cho khí thấp, cho tỳ vị ( lá mía và bao tử ).
  • Mầu trắng : thuộc kim, tượng trưng cho khí khô táo, cho phế và đại trường .
  • Mầu đen : thuộc thủy, tượng trưng cho khí hàn, cho thận và bàng quang.
  • Mầu xanh : thuộc mộc, tuợng trưng cho khí phong, cho gan và mật.
  • Mầu sắc hiện ra ở mặt cho biết mức độ bệnh:
  • Bệnh nặng hay nhẹ ( thuộc biểu hay thuộc lý ) : bệnh còn ở ngoài tạng phủ hay đã vào tạng phủ ) là do mầu ấy nhạt hay đậm.
  • Bệnh thuộc hư hay thực : do mầu sắc ấy tối bầm hay sáng tươi.
  • Bệnh thuộc hàn hay nhiệt : do mầu sắc trắng nhiều hay đỏ nhiều.
  • Bệnh làm đau : do sắc hiện trên mặt nhiều mầu xanh hơn các mầu khác.

1. QUAN SÁT ĐẦU MẶT, CỔ GÁY :

Hình thể : Hình thể của đầu mặt tượng trưng cho hình thể của qủa tim, đông y dùng để tìm ra những bất thường của qủa tim hiện ra trên đầu mặt xem nó có một hay nhiều những yếu tố như :

  • Khuôn mặt hốc hác : là suy nhược , kém hấp thụ, suy dinh dưỡng.
  • Khuôn mặt tròn đầy : dinh dưỡng đầy đủ, khỏe mạnh.
  • Khuôn mặt sưng phù : Cơ thể bị giữ nước, nhiều thủy thiếu hỏa để thủy hóa khí.
  • Da mặt dầy : là khí yếu không tuần hoàn ra đến ngoài da.
  • Da mặt mỏng : là khí mạnh tuần hoàn ra đến da.
  • Da có mụn hay chấm xám đen không có ngòi, sờ vào mụn không đau gọi là mụn âm do khí dương suy.
  • Da có mụn nhỏ chấm đỏ hoặc rôm sảy, có ngòi, sờ vào đau gọi là mụn dương thực.
  • Hai bên mặt to bằng nhau : Cơ sở của qủa tim tốt.
  • Mặt bên dầy bên hóp hoặc có ngấn vạch chia má trên má dướI thành hai phần : đó là dấu hiệu vách thành tim bị dầy làm hở van tim phía bên má dầy, hẹp van tim bên má bị hóp. Có thể xác nhận chắc chắn tình trạng bệnh bằng một trong các dấu hiệu như cảm thấy đau bên má khi tay đụng vào như kim châm đụng phải, hay thỉnh thoảng gân mặt hơi giựt nhẹ.
  • Cằm có nọng thịt trông to hơn phần ở trán : đó là dấu hiệu của bệnh cao áp huyết, nếu dùng tay gõ vào cái nọng đó thấy đau nhiều.
  • Mặt và mắt đỏ : dấu hiệu sốt do tâm nhiệt.
  • Cằm và cổ đỏ : đó là dấu hiệu sốt do thận nhiệt.
  • Trước cổ họng : Nhìn thấy mạch đập nhanh ở cổ phụ nữ, có thể đang có thai. Có những nơi u hay phình ra là dấu hiệu của bệnh thyroĩde, bướu hạch. Ở hai bên cổ dưới chân tai sưng đau là cơ thể nhiễm trùng..
  • Sau gáy : Người không mập mà sau gáy có khối thịt u lên như mập là dấu hiệu cao áp huyết.
  • Khí lực : Nhìn mặt thấy da mặt sáng là sức khỏe đủ, da mặt tối là sức khỏe yếu.
  • Tinh thần : Nhìn mặt xem vui tươi hay ủ rũ, lo lắng, sợ sệt, mệt mỏi, buồn chán.
  • Mầu sắc : Sắc mặt hồng hào hay nhợt nhạt trắng, trắng xanh, xám, sậm, đen ,mốc như mầu chì, hay có những chỗ trắng, chỗ đỏ, đỏ sáng, đỏ đậm, đỏ tối chìm dưới da, có vết nám hoặc quầng thâm ở má, ở mắt, hoặc mầu sắc trên mặt hồng hào khỏe mạnh, hoặc hoàn toàn đỏ như đang bị sốt...

2.  QUAN SÁT hai bên má :

là bộ vị chỉ về phổi :

Má nào đỏ, khác hẳn với mầu sắc bình thường của các nơi khác trên mặt, hay chỉ đỏ đều ở hai bên má là nhiệt, còn các bộ vị khác trên mặt không đỏ, hoặc bên má trắng mét là phổi hàn, trắng xanh hoặc sạm đen là phế thận bệnh.

  • Má có bên trắng bên không hay cả hai bên đều trắng hơn các nơi khác : đó là dấu hiệu của bệnh phổi, bên nào trắng nhiều là bên đó bệnh nhiều.
  • Má bên trái đỏ hơn các chỗ khác : đó là dấu hiệu bệnh sốt do can nhiệt.
  • Má bên phải đỏ : đó là dấu hiệu bệnh sốt do phế nhiệt.
  • Hai bên má nổi mầu nhạt đỏ lẫn trắng : dấu hiệu dương khí hư.
  • Gò má góc dưới khóe mắt ngoài biến dạng : nổi cục u nhỏ mầu hơi đậm hơn các chỗ khác, có thể đó là dấu hiệu bướu trong vú.

3. QUAN SÁT mắt :

Mắt chỉ chức năng của ngũ tạng, nó biểu lộ dấu hiệu bệnh của tim, gan, lá lách, phổi ,thận.

  • Mắt trong hay đục : Mắt trong là can khí khai khiếu ra mắt đủ. Mắt đục là can khí suy không lên nuôi mắt, làm mỏi mắt, hoa mắt..
  • Mắt mờ do hỏa vọng : Do can khí thực.
  • Mắt tinh anh hay lờ đờ : Mắt tinh anh là thần mạnh, mắt lờ đờ là thần kinh suy nhược.
  • Mắt khô hay ướt : Mắt khô là thủy khí của thận không lên nuôi mắt, mắt ướt là thủy khí của thận đầy đủ.
  • Mắt có quầng thâm hay không : Có quầng thâm do thận hư.
  • Tròng trắng : chỉ bộ vị của phổi, nếu trong sáng là phổi tốt, trắng đục là phổi yếu, bệnh.
  • Tròng đen : chỉ bộ vị của gan, nếu trong là chức năng gan tốt, nếu đục là chức năng gan hư yếu.
  • Con ngươi to hay nhỏ : Con ngươi chỉ bộ vị của thận, con ngươi bình thường nhìn từ bên ngoài vào có bề ngang to chừng 5mm, nếu con ngươi thu nhỏ lại khi ra ánh sáng chỉ còn 3mm, khi vào trong tối sẽ nở to ra khoảng 7mm chứng tỏ mắt điều tiết đúng. Mắt có dấu hiệu bệnh cận thị thì nở lớn mà không thu nhỏ được, dấu hiệu viễn thị thì con ngươi thu nhỏ lại mà không nở ra được .
  • Mắt có vết trắng đục che tròng đen: là dấu hiệu mắt có cườm.
  • Gai thị không đu : là những hình que hiện ra nơi tròng đen không đều làm loạn thị, loạn sắc.
  • Tròng trắng có nhiều gân máu đỏ : là dấu hiệu gan nhiệt phạm phế ,nếu có ghèn là can phế nhiệt.
  • Mắt: Lé là dấu hiệu can phong làm cơ vòng, cơ co và cơ giãn điều chỉnh mắt bị lệch một bên làm lé vào trong hay lé ra ngoài .
  • Mi mắt sưng : nếu sưng mí mắt là dấu hiệu tỳ nhiệt tạo ra thấp nhiệt là điều kiện dễ phát sinh vi trùng và dễ bị nhiễm trùng..
  • Mắt và trong mí mắt trắng xanh đục, không có thần sắc : là dấu hiệu bạch cầu tăng, hồng cầu giảm. Nếu cơ thể suy nhược dáng người mệt mỏi, da trắng xanh là dấu hiệu ung thư máu.
  • Mắt ưa nhắm không nhìn ai : thuộc chứng hàn.
  • Mắt đỏ, mở lớn nhìn người : thuộc chứng nhiệt.

4. QUAN SÁT TINH THẦN QUA ÁNH MẮT :

  • Mắt nhìn đăm đăm : là hận thù, giận, bực tức.
  • Mắt nhìn đăm đăm rồi không thèm nhìn nữa : là ghen ghét khinh bỉ.
  • Mắt nhìn ngơ ngác : tâm trạng rối loạn, lo lắng, sợ hãi.
  • Mắt nhìn ngơ ngác mà ánh mắt yếu : lá thần thoát, thoát dương khí, sắp bị tai họa hay tận số.
  • Mắt nhìn áy náy : tâm trạng lo lắng không yên.
  • Mắt nhìn tò mò : Tinh thần không ổn định, hoang mang ,nghi ngờ.

5. QUAN SÁT mũi :

Mũi là bộ vị để khám bệnh ở tim, cuống phổi, cổ họng.

  • Cánh mũi phập phồng : Nếu có là dấu hiệu phổi bệnh dễ nhiễm cảm nóng lạnh.
  • Đầu mũi đỏ : là dấu hiệu tâm dư hỏa, do sốt, do áp huyết cao, người bị nhiệt.
  • Đầu mũi trắng : là dấu hiệu tim mất nhiệt, người bị hàn, lạnh.
  • Mũi sưng : là dấu hiệu nhiễm trùng, viêm xoang.
  • Chân mũi lở nứt mầu đỏ hay nổi hột mụn : là dấu hiệu thấp nhiệt ở tim gây ra loạn nhịp tim, tim đập mất nhịp..
  • Sống mũi lệch : là dấu hiệu vách ngăn mũi lệch dễ bị nghẹt một bên mũi.

6. QUAN SÁT môi :

Môi là bộ vị để tìm dấu hiệu bệnh tật ở chức năng tiêu hóa của tỳ vị, tim mạch và buồng trứng ở phụ nữ.

  • Môi dầy hay mỏng : Môi tự nhiên dầy lên do tỳ nhiệt, do phong nhiệt làm sưng môi.
  • Môi khô hay ướt : Môi khô là dấu hiệu người thiếu thủy khí hay bị khát nhưng uống nước nhiều môi vẫn khô là do thận thủy không hóa khí do thận dương không chuyển hóa.
  • Môi nhợt trắng hoặc xanh tím : thuộc hàn chứng.
  • Môi khô nứt sưng đỏ : thuộc nhiệt chứng.
  • Môi trắng nhạt hay hồng hay đỏ đậm : Môi trắng là chức năng tỳ hư yếu không muốn ăn, sưng hay xệ là tỳ bị thấp nhiệt, hay môi dưới tự nhiên xệ xuống cằm như sưng là dấu hiệu của hở van tim.
  • Môi đỏ không tươi, ngả mầu thâm : Do huyết ứ tắc thuộc thực chứng.
  • Môi bị thâm đen vĩnh viễn không trở lại mầu cũ như trước khi chưa bệnh : là dấu hiệu phản ứng phụ do lạm dụng truyền qúa nhiều nước biển khi bị bệnh .
  • Vị trí môi cân đối với khuôn mặt hay bên cao bên thấp : là dấu hiệu một bên buồng trứng bị xệ, nếu không có dấu hiệu đau chỉ có dấu hiệu bờ môi trên một bên có một lỗ chấm lõm rất nhỏ nhìn kỹ mới thấy, là dấu hiệu đã cắt mổ buồng trứng.
  • Vị trí cạnh khóe môi khi cười hơi lệch : là dấu hiệu sắp bị trúng phong méo miệng, gân một bên má miệng thỉnh thoảng co giật là thần kinh mặt bên co bên rút.
  • Rãnh cười quanh môi mũi không đều : bên cao bên thấp, bên dài bên ngắn là dấu hiệu đau do dây chằng co rút.
  • Mầu sắc chung quanh môi trên trắng xanh : là dấu hiệu lạnh ruột sôi bụng ăn không tiêu ,hay bị tiêu chảy, do ăn nhiều thức ăn tạo ra nhiều hàn khí như cam, rau xanh, đồ biển, uống lượng nước nhiều trong một lần làm xệ ruột.
  • Mầu môi và chung quanh môi trắng xanh : là dấu hiệu ung thư ruột, bụng nặng tức, đau.
  • Rãnh nhân trung giữa mũi và môi : chỉ bộ sinh dục nam nữ .Khi hai vợ chồng bị hiếm muộn, khó thụ thai, nếu nguyên nhân không do yếu tố thuộc lãnh vực đông tây y, là do tử cung bị lệch, có dấu hiệu lệch nhân trung, người ngoài có thể nhận ra khi vọng chẩn. Ngoài ra có trường hợp không phải lý do tử cung lệch thì do nguyên nhân chiều dài và độ sâu hiện ra trên nhân trung của hai vợ chồng không phù hợp, giống như nồi và vung không đúng số, trong sách tướng số cũng từng nói ‘’mồm làm sao, ngao làm vậy.’’

7. QUAN SÁT lưỡi :

Lưỡi là bộ vị chẩn đoán những diễn tiến của bệnh tật ở bao tử, chức năng chuyển hóa và hấp thụ thức ăn có liên quan đến ngũ tạng như tim, gan, phế, thận.

Đầu lưỡi : chỉ sự hoạt động và diễn tiến bệnh tình thuộc về chức năng tim.

Nếu đầu lưỡi đỏ hơn các chỗ khác của lưỡi là tim nhiều hỏa gây ra nhiệt bệnh, cần phải khám phối hợp ở các bộ vị khác để tìm bệnh (như cao áp huyết, sốt nhiệt, bao tử nhiệt, táo bón..). Nếu mầu đỏ tươi sáng là bệnh thuộc thực chứng, mầu đỏ tối thuộc hư chứng.

Da lưỡi : chỉ chức năng hoạt động của phổi. Da lưỡi sáng, tươi nhuận, mỏng, trơn mịn, chứng tỏ sự khí hóa của phế tốt.

Mặt lưỡi : chỉ chức năng hoạt động của bao tử ( vị ), nếu có mầu hồng ,mềm dẻo, linh động, có một lớp rêu lưỡi mỏng, là chức năng của vị tốt.

  • Nếu mặt lưỡi dầy, có lớp rêu trắng dầy :là chức năng bao tử không tốt.
  • Nếu mặt lưỡi có hột, có gai, đầu lưỡi và giữa lưỡi đỏ : là chức năng của tâm và vị đều thực nhiệt.
  • Nếu mặt lưỡi và cả lưỡi có những chấm tụ máu bầm đen : là nguy hiểm, bệnh liên quan đến tim, gan, tỳ vị, cho biết trong cơ thể có nơi bị xuất huyết tụ máu bầm làm tắc nghẽn tuần hoàn huyết, ăn uống không được, máu bị nhiễm độc, nhiễm trùng..

Rêu lưỡi : Nếu rêu lưỡi trắng dầy, khô là bao tử nhiệt, rêu lưỡi dầy ngả sang mầu vàng khô là bao tử qúa nhiều nhiệt, mầu vàng khô chuyển sang mầu vàng khô xanh, có vết nứt trên rêu lưỡi hay vết nứt giữa lưỡi như bị dao rạch là bao tử có dấu hiệu nhiệt làm loét bao tử, thân nhiệt nóng, trán nóng, khô họng, uống bao nhiêu nước cũng vẫn bị khô cổ họng.

  • Rêu lưỡi vàng hoặc nám đen : Bệnh thuộc lý chứng.
  • Rêu trắng mỏng : Bệnh thuộc biểu chứng.
  • Rêu trắng mỏng ướt : Bệnh thuộc chứng biểu hàn.
  • Rêu lưỡi trắng nhạt, dầy : Bệnh thuộc chứng lý hàn.
  • Lưỡi hoạt nhuận, đầu lưỡi nở to, trắng nhạt, rêu lưỡi trắng trơn : thuộc chứng hàn.
  • Lưỡi cứng sượng, rêu thô vàng hoặc gai, hoặc đen, đầu lưỡi xanh sậm : thuộc chứng nhiệt.
  • Rêu lưỡi trắng : Bệnh thuộc chứng biểu thực.
  • Rêu lưỡi trắng nhạt : Bệnh thuộc chứng biểu hư.
  • Lưỡi đầy to, rêu trắng nhạt : Bệnh thuộc chứng lý thực hàn.
  • Lưỡi cứng sượng, rêu vàng khô : Bệnh thuộc chứng lý thực nhiệt.

Lưỡi co rút : tự nhiên lưỡi bị co rút, đông y gọi là hỏa thiêu cân, do nội nhiệt ở cơ thể do gan nhiệt làm ra hại đến thần kinh khiến lưỡi bị co rút ngắn hoặc lệch một bên sinh ra tật nói ngọng, đớ lưỡi.

Lưỡi dầy, trơn, ướt, trắng nhạt, rêu trắng : chứng tỏ người hàn, bao tử hàn, không muốn ăn.

Gốc lưỡi đỏ hay sưng : gốc lưỡi sâu trong cổ họng chỉ chức năng hoạt động của thận, nếu thận hoạt động tốt thì gốc lưỡi lúc nào cũng ướt, khi bị khô cổ họng là thận thủy không đưa nước lên tới cổ họng, khi đau viêm họng là tuyến thượng thận mất chức năng điều chỉnh hormones để kháng viêm.

Cạnh hai bên hông lưỡi : chỉ chức năng hoạt động của gan. Cạnh lưỡi bằng phẳng trơn tru là chức năng gan tốt. Nếu cạnh lưỡi có gai hay có hình răng cưa là gan bị nhiệt. Cạnh lưỡi vừa có gai, có hình răng cưa nhăn nhúm, vừa có mầu đỏ đậm hoặc bầm đen là gan bị tổn thương thực thể như chai gan, viêm gan loại A,B,C.

8. QUAN SÁT RĂNG , NƯ‌ƠU RĂNG :

Răng chỉ chức năng hoạt động của thận dương . Nướu răng chỉ chức năng tỳ vị. Nếu chân răng chắc là chức năng tỳ vị khỏe.

Nếu nướu răng lỏng lẻo là chức năng tỳ vị thực nhiệt làm sưng nướu và chân răng. Nếu nướu dễ mọc mụn bọc mủ do bao tử chứa thức ăn tích nhiệt độc, ăn thiếu sinh tố E trong rau xanh.

  • Răng tốt, men răng trắng bóng : chỉ chức năng thận dương hoạt động tốt.
  • Răng khô : chỉ chức năng chuyển hóa thận âm của thận dương yếu không đem chất xương nuôi răng.
  • Răng ngả mầu tối đen, không bóng, có chỉ sọc trên mặt răng : cho biết chức năng thận âm dương đều hư yếu.

9. QUAN SÁT TAI :

Tai là bộ vị chỉ chức năng hoạt động của thận và tuyến thượng thận.

Mầu sắc của hai tai giống nhau và hồng như mầu da mặt, tươi sáng là chức năng hoạt động của thận tốt.

Tai chia hai phần, nửa tai phần trên chỉ sự hoạt động của tuyến thượng thận hay còn gọi là thận dương, nửa tai phần dưới chỉ chức năng thận âm. Cả hình dáng của tai chỉ hình phản chiếu hình thể của qủa thận.

  • Phần trên tai sưng, da tai như mọng nước : cho biết tuyến thượng thận bên phía tai đó bị bệnh. Nếu đỏ bầm phần trên hai bên tai là thận dương không chuyển hóa tạo hormones để phòng chống bệnh.
  • Mầu sắc hai tai trắng nhạt hơn da mặt : cho biết chức năng thận âm dương đều hư yếu, người bị hàn, lạnh.
  • Tai nở to dầy như sưng, mầu trắng xanh : chứng tỏ sưng thận, phù nước, không chuyển hóa, cơ thể hư nhược bệnh hoạn nặng trong bệnh liệt thận.
  • Vành tai dầy, có những hột cứng chìm trong da : không phải mụn, không đau không đỏ, chứng tỏ trong cơ thể có bướu, hạch.
  • Loa tai tự nhiên mở rộng mỏng ra : nhìn thấy như tai lừa khác với tai bên kia hay nhìn thấy khác với bình thường, chứng tỏ cơ thể bị độc tố nặng mà chức năng thận không thải lọc được như trong trường hợp bệnh ung thư phải dùng đến hóa chất trị liệu với liều cao. Khi độc tố trong cơ thể ít đi loa tai sẽ trở lại bình thường.

10. QUAN SÁT MÓNG TAY ,CHÂN :

Đông y nhìn móng tay và chân để tìm dấu hiệu của khí ,huyết liên quan đến dinh dưỡng đúng hay sai.

  • Các móng tay mỏng và hồng: là khí đủ, huyết đủ.
  • Móng tay mỏng và trắng : là khí đủ huyết thiếu.
  • Móng tay dầy, cứng, bền : là huyết đủ, khí dư.
  • Móng tay cứng khô : là khí dư, huyết thiếu.
  • Móng tay xám đen : là khí huyết không đến nuôi móng tay .
  • Móng xanh tím : thuộc chứng hàn.
  • Móng đỏ tím : thuộc chứng nhiệt.
  • Móng tay trắng nhạt : là khí huyết đều thiếu.
  • Móng tay có phao trắng : là do tình trạng dinh dưỡng sai lầm không phù hợp với nhu cầu mà cơ thể cần.
  • Móng tay thâm đen như dính thuốc nhuộm : là có tình trạng hở van tim.
  • Móng tay chân nứt dọc thành rãnh : là dấu hiệu của bệnh liên quan đến gan thận.
  • Móng chân hai mầu : Móng chân khô sước như sớ gỗ ,phần trong móng mầu vàng là dấu hiệu nhiễm bệnh sida.
  • Móng chân biến dạng : Móng chân đen và hình thù biến dạng là dấu hiệu bệnh nấm.

11- QUAN SÁT DA TAY CHÂN :

Da là bộ vị chỉ chức năng của phổi, được nuôi dưỡng bằng ăn uống thuộc tỳ- vị, hô hấp thuộc phổi, và trao đổi sự khí hóa hòa hợp của tâm- thận, nên da lúc nào cũng mịn, tươi sáng, hồng, lỗ chân lông khép kín. Nếu một trong các cơ quan tạng phủ trên bị bệnh thì da sẽ bị biến đổi khác.

  • Da khô mốc : chỉ chức năng chuyển hóa của thận yếu.
  • Lỗ chân lông hở to : chỉ chức năng của phổi yếu, có liên quan đến bệnh của phổi.
  • Da phù nước hoặc phù khí : chỉ chức năng của tâm hỏa không đủ chuyển hóa thận thủy.
  • Da hay bị tụ máu bầm đỏ dưới da, không đau : Chỉ chức năng của tỳ không nạp đường, dấu hiệu của bệnh tiểu đường.
  • Da nổi mụn chìm, mụn âm, không đau : Do huyết âm hư.
  • Da nổi mụn có ngòi mủ, mụn dương, sờ vào đau : Trong người có nhiều nhiệt độc.
  • Da cổ chân có vết bầm đen : chỉ chức năng thận dương hư.
  • Da có vết bầm sưng đau : Do ứ huyết thực chứng.

II-   QUAN SÁT NGHE BẰNG TAI    (VĂN CHẨN):

Mục đích của văn chẩn : Là nghe giọng nói ,tiếng ho, hơi thở của bệnh nhân mạnh hay yếu ,âm thanh cao hay thấp, to hay nhỏ, nghe hơi thở yếu hay mạnh, dài hơi hay ngắn hơi, hoặc hơi thở bất bình thường do đau đớn..rồi phải theo sự hướng dẫn của kim chỉ nam đông y là bát cương, gom những dữ kiện thu lượm được sắp xếp phân loại chúng theo Âm-dương, hư-thực, hàn-nhiệt, biểu-lý để phân biệt bệnh do chứng nào làm ra. Thí dụ như :

TIẾNG NÓI VÀ HƠI THỞ :

1.Thuộc âm chứng : Nói nhỏ, yếu, thấp, ít nói, không thích nói, muốn nằm yên. Hơi thở ngắn, nhẹ, yếu.

2-Thuộc dương chứng : Nói to, mạnh, rổn rảng, lắm lời ưa nói nhiều, nói cuồng, la hét, chửI mắng. Hơi thở to, mạnh, gấp, kéo đờm .

3-Chứng phế khí : Hơi thở ngắn, kéo suyễn, tự ra mồ hôi.

Chứng phế khí thực : Hơi thở nghẹt, đờm nhiều, tức ngực, xây xẩm, nằm không yên.

Tạng phế hư, tổn thương : Thở thiếu, hụt hơi, da lông không tươi tốt.

Tạng phế thực, tổn thương : Thở nghịch khí làm ho suyễn.

Trường vị thực chứng : nói xàm, mê sảng.

4-Chứng tâm : Hay bi thương.

Chứng tâm thực :Thần thất thường, cười nói hoài.

Chứng can thực : hay cáu giận.

5- Chứng Hàn : Ít nói, thở khẽ, nhẹ.

Chứng Nhiệt : Nói nhiều, thở mạnh, bực bội.

6-Biểu chứng : Bệnh còn nhẹ, tiếng nói bình thường, có hơi sức.

Lý chứng : Yếu sức, ít nói, mệt mỏi.

CƯỜNG ĐỘ PHÁT ÂM :

Khi phát âm có nhanh có chậm, có cao có thấp, có nhấn âm gằn mạnh từng lúc, cường độ mạnh yếu đều

để lộ ra tâm trạng của người bệnh như :

Nhấn âm nhiều trong câu nói : Tâm càng bị giao động, tình cảm thay đổi bất thường..

Cao độ cao, cường độ mạnh : là tức giận, bực bội, ghen ghét.

Cao độ qúa cao như thất thanh : là sợ hãi, khiếp đảm.

Cao độ thấp : là lo lắng , lo sợ.

Cường độ nhẹ và yếu : biểu lộ lo lắng, ngại ngùng.

III -PHƯƠNG PHÁP ĐẶT CÂU HỎI  (VẤN CHẨN) :

Mục đích của vấn chẩn : Là đặt những câu hỏi để có thêm những dữ kiện biết rõ thêm về vấn đề liên quan đến hô hấp, tuần hoàn ,tiêu hoá, bài tiết, sinh dục ,những sở thích về ăn hợp với vị nào, như mặn hợp với thận, ngọt hợp với tỳ, chua hợp với gan, cay hợp với phế ,đắng hợp với tim..,thích uống nước nóng ấm hay nước lạnh mát, thích mặc ấm hay mát.,mầu nước tiểu, mầu phân, dạng phân cứng hay mềm hoặc lỏng nát, sống sít..để biết rõ thêm về tình trạng bệnh quy về bát cương : âm dương, hư,thực, hàn, nhiệt, biểu lý.

Thầy thuốc giỏi, có kinh nghiệm thuộc bậc thượng công, chỉ cần vọng chẩn và văn chẩn đã có thể xếp những dữ kiện của những dấu hiệu lâm sàng gom vào thành một bệnh chứng do nguyên nhân nào làm ra. Sau đó đối chiếu với cả ngàn bệnh chứng đã thống kê được do kinh nghiệm tích lũy của cổ nhân để lại thành môn học ĐỊNH BỆNH bằng dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng học của đông y . Khi nào có những điểm còn nghi ngờ mới đặt câu hỏi với bệnh nhân để xác nhận lại sự định bệnh của mình có sai hay không. Các câu hỏi cũng theo kim chỉ nam là bát cương về các vấn đề : Đại, tiểu tiện, ăn uống, ngủ nghỉ, sở thích..

1.Về âm chứng : Mình mát, chân tay lạnh, bụng đau ưa xoa nắn, ngủ thích đắp chăn.

Đại tiện : thì phân hôi tanh, nhão.

Tiểu tiện : Tiểu vặt nhiều lần, nước trong, nếu hư chứng tiểu ngắn, ít.

Ăn : kém ăn, không cảm giác, mùi vị.

Uống : Không khát, ưa uống nước nóng.

2.Về dương chứng : Mình nóng, chân ấm, bụng đau không ưa xoa nắn, ngủ không thích đắp chăn.

Đại tiện : Phân cứng, hôi khắm nồng nặc.

Tiểu tiện : Tiểu ngắn, ít, nước tiểu đỏ.

Ăn : Không muốn ăn, miệng khô khát.

Uống : Thích uống nước nhiều, nước mát lạnh.

3-Về hư chứng : Nếu khí hư ưa ra mồ hôi, huyết hư khô miệng, ra mồ hôi trộm.

Đại tiện : Đi cầu ra nước lỏng :do khí hư. Đi cầu không được, như bón giả do thận khí hư., thận khí hư nặng hay đi tiêu chảy ban đêm.

Tiểu tiện : Tiểu không cầm dứt, Di tinh, đái són do thận hư.

Ăn : không muốn ăn do khí hư. Ăn không tiêu bụng đầy do thận hư.

Uống : Thích uống nước nóng ấm nhưng không dám uống sợ làm đầy bụng.

Ngủ : Mất ngủ, suy nhược, đêm cảm thấy nóng do chứng huyết hư, gân máy động , thịt co giật. Nặng thì chân tay co giật rút đau.

Nếu chứng tâm hư : hay bi thương.

Nếu Can hư thì mắt mờ, âm nang teo, co rút gân, hay sợ.

Nếu tỳ hư thì thân thể nặng nề biếng vận động, ăn không tiêu, đầy bụng, hay lo buồn.

4-Về thực chứng :

Nếu phế khí thực thì đờm nhiều, nằm không yên, xây xẩm, chóng mặt.

Nếu vị khí thực thì bụng đầy, ưa uạ mửa, ợ hôi thối, nấc cục, nước chua ở họng.

Nếu trường vị thực thì bụng trướng đau quanh rốn.

Nếu can khí thực thì nhức đầu, mờ mắt.

Nếu chứng huyết thực ở thượng tiêu thì hông, ngực, tay, vai đau. Ở trung tiêu thì bụng bị gò thắt. Ở hạ tiêu thì bụng dưới đau như dùi đâm một chỗ cố định.

Nếu tạng can thực làm đau sườn bụng.

Nếu tỳ thực thì bụng đầy trướng, bí đại tiểu tiện, mình sưng phù.

Nếu tạng thận hư thì phủ hạ tiêu bế tắc làm bụng đau tức.

5-Về hàn chứng : có dấu hiệu đờm lỏng trắng, tinh thần trằm tĩnh uể oải, tay chân lạnh, bụng lạnh đau.

Đại tiện : lỏng nhão.

Tiểu tiện : nhiều, nước trong.

Ăn : Ưa thức ăn nóng, hay nhổ nước bọt nhiều.

Uống : Không khát, ưa uống nước nóng.

Ngủ : Ưa rút chân nằm co, sợ lạnh.

6-Về nhiệt chứng : có dấu hiệu đờm vàng đặc ,tinh thần bức rứt không yên.Tay chân ấm nóng.

Đại tiện :Bón, bí kết, phân cứng thành cục mấy ngày không ra. Bụng đau nổi gò cục.

Tiểu tiện : tiểu ít, nước tiểu đỏ.

Ăn : Ưa thức ăn mát, ít nhổ nước bọt.

Uống : Hay khát thích uống nước lạnh mát.

Ngủ : hay lăn lộn, ưa nằm ngửa duỗi thẳng chân.

7-Về biểu chứng : là bệnh nhẹ còn ở ngoài kinh mạch , chỉ có ở da, lông , kinh lạc. Hỏi triệu chứng có ớn lạnh, phát nóng, đau đầu, mình mẩy, tay chân nhức mỏi không ?

Bệnh thuộc chứng biểu hàn : Nếu phát nóng ớn lạnh.

Bệnh thuộc chứng biểu nhiệt : Nếu sợ gió, mình nóng, có mồ hôi hoặc không .

Bệnh thuộc chứng biểu hư : Nếu sợ gió, tự ra mồ hôi.

Bệnh thuộc chứng biểu thực : Nếu da lông không ra mồ hôi.

8-Về lý chứng : là bệnh đã xâm nhập vàp tạng phủ. Có triệu chứng nóng dữ dội, thần chí hôn mê li bì, phiền táo, khát, tức ngực, bụng đau.

Bệnh thuộc lý hàn : Nếu sợ lạnh, không khát, ói mửa, tiêu chảy, ăn buồn nôn, tứ chi lạnh .

Bệnh thuộc lý nhiệt : Nếu phát nóng, miệng khô khát ít nước miếng, mắt đỏ, môi đỏ, tâm phiền.

Bệnh thuộc chứng lý hư : Nếu chi lạnh, ít nói, mệt mỏi, hồi hộp, xây xẩm, đại tiện lỏng.

Bệnh thuộc chứng lý thực : Nếu táo bón, bụng đầy, ra mồ hôi tay chân , thở thô, nói to, tâm phiền.

IV- PHƯƠNG PHÁP THỬ NGHIỆM (THIẾT CHẨN):

A- Mục đích của thiết chẩn :

Theo phương pháp đông y cổ điển là áp dụng 28 loại mạch khác nhau để bắt mạch của 12 đường kinh trên cổ tay xem tình trạng diễn tiến của bệnh thuộc Khí hay Huyết hay Đàm, thuộc Âm hay Dương, thuộc Tạng hay Phủ nào bệnh, Hư hay Thực, Hàn hay Nhiệt, Biểu hay Lý, bệnh đang tăng hay giảm.. tất cả mọi dữ kiện cũng quy về tiêu chuẩn bát cương để phân tích được bệnh tình hiện tại trong lúc khám thuộc chứng nào, để so sánh với ba phương pháp trên là vọng, văn, vấn có phù hợp không. Nhiều khi bắt mạch do chủ quan không so sánh với ba phương pháp kia có thể dễ sai lầm. Đôi khi bệnh nặng thuộc nan y nửa hư nửa thực, nửa hàn nửa nhiệt, nửa biểu nửa lý, nửa âm nửa dương, chứng không phù hợp mạch, cho nên nếu muốn đạt được trình độ bắt mạch giỏi không sợ sai lầm phải có thực hành trong ba bốn chục năm trở lên và lúc nào cũng phải biết đối chiếu với những kinh nghiệm cổ nhân qua những tài liệu Dấu hiệu triệu chứng lâm sàng học đã được thống kê khá đầy đủ ở một bài khác.

B- Mục đích của thử nghiệm :

Theo phương pháp mới ở thời đại khoa học ngày nay, chúng ta cũng có thể thử nghiệm theo phương pháp của tây y để biết những dấu hiệu lâm sàng nào mà tây y xét nghiệm được ,so với thống kê của đông y để biết thế nào là chứng hàn, thế nào là chứng nhiệt qua việc thử máu, thử nước tiểu, đo mạch và đo huyết áp, đo điện tâm đồ, điện não đồ . Thí dụ :

1-NẾU BỆNH DO ÂM CHỨNG :

Có dấu hiệu : Sắc mặt trắng mét, xanh hoặc tối nhạt hay sậm. Tinh thần lờ đờ không linh hoạt. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trơn. Thân mệt mỏi, yếu, nặng nề, nằm co. Những dấu hiệu này có thể làm ra nhiều bệnh, theo tây y sẽ có nhiều tên bệnh khác nhau, có vi trùng hay không , nhưng đông y xếp vào loại âm chứng gồm mạn tính, hư, hàn, yếu, trầm tĩnh, ức chế, công năng trao đổi chất giảm, hướng bệnh vào trong.

2-NẾU BỆNH DO DƯƠNG CHỨNG :

Có dấu hiệu : Sắc mặt ửng đỏ hoặc đỏ hồng. Tinh thần cuồng táo chẳng yên. Chất lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi vàng khô hay sậm, nặng thì miệng lưỡi rách nứt, rêu lưỡi đen mọc gai. Thân nóng nẩy bực bội, bức rứt, ưa mát. Tên bệnh theo tây y có nhiều tên khác nhau, có vi trùng hay không. Nhưng đông y xếp bệnh thuộc loại dương chứng gồm cấp tính, thực nhiệt, hưng phấn, trao đổi chất dư thừa, hướng bệnh ra ngoài.

Khi thầy thuốc đông y khám một bệnh nhân có những dấu hiệu trên,và kết luận là chứng hàn hay chứng nhiệt, thì gửI bệnh nhân đi xét nghiệm theo tây y thấy có những dữ kiện khác biệt để phân biệt như sau :

Chứng hàn :

Hồng cầu huyết sắc tố thấp

Tiểu nhiều làm uré máu giảm thấp

Nhịp mạch chậm, áp huyết thấp

Gamma globulin thấp, giảm khả năng chống bệnh, suy nhược, chi lạnh.

Thần kinh bị ức chế, trầm cảm.

Chứng nhiệt:

Hồng cầu huyết sắc tố cao

Tiểu ít, uré máu tăng

Nhịp mạch nhanh, áp huyết tăng

Gamma globulin cao

Chân tay nóng.

Thần kinh hưng phấn, kích động, tăng nhiệt

C- Cách thử nghiệm của PHƯƠNG PHÁP KHÍ CÔNG CHỮA BỆNH :

Đối với phương pháp Khí Công Chữa Bệnh có ba cách thử nghiệm khác nhau để tìm những dữ kiện quy về BÁT CƯƠNG để định ra được bệnh thuộc chứng nào, vừa gọi ra được bệnh bằng tên bệnh theo tây y, vừa chính xác, nhanh, và phân biệt được bệnh thuộc chức năng hoặc bệnh thuộc cơ sở.

Cách thử nghiệm thứ nhất : QUY KINH CHẨN PHÁP

Quy kinh chẩn pháp dùng để khám tình trạng hư-thực của 24 đường kinh trên 10 ngón tay ngón chân thuộc lục phủ ngũ tạng, bên thuộc chức năng, bên thuộc cơ sở, Quy kinh chẩn pháp thay cho cách bắt 28 bộ mạch cổ điển của đông y.

Cách thử nghiệm thứ hai :Khám bệnh bằng huyệt trên lưng, và các huyệt liên quan tương ứng với tình trạng đang bệnh để biết hư thực, hàn nhiệt, biểu lý.

Cách thử nghiệm thứ ba : Khám bằng các động tác tập thể dục khí công để biết bài nào tập được, bài nào không thể tập được do bị bệnh gì .

 

PHẦN HAI – PHẦN ĐỊNH BỆNH

Phần định bệnh là biết phân biệt bệnh và chứng mới có thể truy tìm nguyên nhân gây bệnh để có cách chữa đúng. Tên bệnh và chứng được giữ nguyên theo tên dùng thời cổ đại để chúng ta hiểu rằng các vị y khoa tiền bối đã có công khám phá ra được nhiều bệnh, tích lũy được nhiều kinh nghiệm, sắp xếp phân loại có tính cách khoa học từ nguyên nhân đến triệu chứng và cách chữa mà y học hiện đại cũng còn đang phải bận tâm nghiên cứu mãi không ngừng.

Phần định bệnh gồm hai phần : Phần tự khám bằng cách thu nhặt những dấu hiệu, triệu chứng của bệnh để có đủ dữ kiện đánh giá, phân loại theo bát cương. Phần đối chiếu kinh nghiệm của cổ nhân đã được thống kê trong môn học dấu hiệu triệu chứng lâm sàng học để xem phần định bệnh có đúng với chứng không. Tuy nhiên MỘT bệnh có thể do nhiều CHỨNG gây ra, và ngược lại MộT CHỨNG bao gồm nhiều bệnh, cần phải phân biệt bệnh nào, chứng nào, là chính, các dấu hiệu khác chỉ là biến chứng phụ thuộc.

Như vậy BÁT CƯƠNG cũng vẫn là kim chỉ nam của phần thứ hai là định bệnh truy tìm nguyên nhân bệnh quy về gốc tìm chứng nào làm ra .

Theo lý thuyết, 8 yếu tố trong BÁT CƯƠNG là nguyên nhân phát sinh ra nhiều bệnh được gom lại thành một chứng, do đó có thể có 8x8=64 chứng đơn giản như ghép một yếu tố với 7 yếu tố khác sẽ có chứng âm hư, âm thực, âm hàn, âm nhiệt, âm biểu, âm lý hoặc dương hư, dương thực, dương hàn, dương nhiệt, dương biểu, dương lý.

Rồi 64 chứng căn bản trở nên phức tạp, mỗi chứng căn bản lại ghép thêm với một yếu tố sẽ thành chứng âm hư hàn, chứng âm hư nhiệt, chứng dương hư hàn, chứng dương hư nhiệt, hoặc chứng âm dương lưỡng hư, âm dương thực hàn, âm dương thực nhiệt, hoặc âm thực dương hư, âmdương thực, biểu thực hư, biểu thực, biểu hư hàn lý thực nhiệt, lý thực hàn dương hư nhiệt...

Ngoài ra âm có 6 kinh âm và 5 tạng thì âm nào thực, âm nào hư, tạng nào thực tạng nào hư, tạng nào hàn, tạng nào nhiệt . Dương cũng có 6 kinh dương và 6 phủ, khi nói đến chứng dương bệnh thì phủ nào hư, phủ nào thực, phủ nào hàn, phủ nào nhiệt..

Như vậy muốn tìm nguyên nhân gốc bệnh thì phải khám lâm sàng theo bát cương sẽ biết rõ bệnh do chứng nào làm ra. Trong chứng sẽ biết rõ do tạng nào phủ nào đang ở trong tình trạng thuộc yếu tố nào trong bát cương.. và mỗi chứng có một hay nhiều dấu hiệu bệnh.

1-BỆNH VÀ CHỨNG :

Một bệnh có thể do một chứng, một bệnh có thể do nhiều chứng và một chứng có một bệnh, một chứng cũng bao gồm nhiều bệnh. Do đó phải biết phân biệt bệnh nào chính, chứng nào chính, những bệnh khác, chứng khác chỉ là biến chứng. Khi chữa bệnh tùy theo trình độ bậc thầy thượng công, trung công, hạ công mà chọn cách chữa khác nhau, kết qủa khác nhau.

Thí dụ 1: Một bệnh do một chứng:

Bệnh ăn không tiêu do chứng vị hàn.

Khi khám và định bệnh có nhiều dấu hiệu phụ như : bụng lạnh đau, thích uống nước ấm, nhưng không dám uống nhiều vì có dư nước không đủ hỏa để chuyển hóa khí, nguyên nhân do tâm hỏa suy.

Thí dụ 2 : Một bệnh do nhiều chứng phức tạp : như những thí dụ sau đây :

Bệnh chai gan :

Do chứng tam dương thực nhiệt bởi ba kinh Vị, Đởm, Bàng quang đều nhiệt kết khí ở gan làm ra bệnh chai gan.

Bệnh ung thư tử cung :

Do chứng tam âm thực hàn bởi ba kinh Can, Tỳ, Thận đều hàn kết khối u ở bụng dưới làm thành bướu.

Bệnh cao áp huyết :

Có thể do nhiều chứng khác nhau làm ra bệnh như chứng can hỏa vượng, chứng can phong nội động, chứng dương cang can nhiệt, chứng âm hư dương cang, chứng can thận âm hư, chứng âm dương lưỡng hư...:

Nếu Do chứng dương cang can nhiệt thịnh :
Đầu nóng hơn chân, đầu căng đau, váng đầu, buồn bực, dễ cáu giận, họng khô khát nóng, thích uống mát, táo bón, tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.

Nếu Do chứng âm hư dương can :
Đầu căng đau, váng đầu, miệng họng khô, dễ cáu giận, mỏi lưng gối, sắc lưỡi đỏ, rêu khô.

Nếu Do chứng can thận âm hư :
Chóng mặt hoa mắt, hay quên, mất ngủ, lưng gối nhức mỏi, kinh nguyệt không đều, táo bón, lưỡi đỏ, rêu ít.

Bệnh ngoại cảm : Có thể do những chứng sau :

Do chứng phong hàn : Gặp gió lạnh ho nhiều, đờm trắng trong loãng, sợ lạnh, đầu và chân tay đau nhức, miệng nhạt không khát, lưỡi đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng trơn.

Do chứng phong nhiệt : Sợ gió, đờm dính, họng khô đau, đầu lưỡi đỏ.

Do chứng phế hư hàn giáp đờm ẩm : Gặp gió thì ho, đờm trắng loãng có bọt, tức ngực, miệng nhạt không khát, thích uống nóng, dễ ra mồ hôi, rêu lưỡi trắng trơn.

Do chứng khí hư đờm trọc : Tiếng ho nhỏ, ho kéo dài, khi ho hoặc hoạt động thì toát mồ hôi, thở ngắn, tức ngực, ăn ít, lưỡi nhạt, rêu dính nhớt.

Do phế uẩn nhiệt đờm : Ho gấp, đờm vàng dính, miệng khô, tức ngực, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.

Do chứng âm hư (phế thận ): Ho khan không đờm hoặc ít đờm, họng, miệng khô ráo, chân tay nóng, lưng gối nhức mỏi, đàn ông di tinh, lưỡi đỏ nhạt rêu lưỡi ít.

Bệnh hen suyễn :

Là bệnh dị ứng của phổi, đông y gọi là bệnh háo, nguyên nhân do đờm trọc tích lũy trong phổi lâu ngày dẫn đến phế, tỳ, thận hư lại do thời tiết thay đổi, do ăn uống bị dị ứng, hay do hút thuốc uống rượu hoặc làm việc quá mệt nhọc, lúc lên cơn thở khò khè, gấp gáp như suyễn, nằm ngửa khó thở, ưa khạc đờm. Đông y phân biệt thành bốn chứng :

Do chứng hàn : Suyễn phát đột ngột, thở gấp, khó, có tiếng kéo đờm, khạc đờm trắng loãng, sốt, sợ lạnh, không khát, chảy nước mũi trong, đau nhức mình, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng.

Do chứng đờm nhiệt : Trời nắng hoặc ở nơi nóng bị tức ngực khó thở, thở gấp, đờm vàng dính, miệng khát, buồn bực, táo bón, lưỡi đỏ, rêu vàng nhẵn.

Do chứng đờm trọc : Khi lên cơn đờm khò khè trong cổ, tức ngực, bụng, sườn, buồn nôn, không nằm được, rêu lưỡi trắng dính.

Do chứng khí hư : Hơi thở ngắn, nói nhỏ, ăn uống kém, sau khi ăn sình bụng, ho đờm trắng, tự xuất mồ hôi, lưỡi nhạt.

Do chứng dương hư : Khi vận động thì thở khò khè, ho đờm trong, loãng, sợ lạnh, chi lạnh, tiểu ra nước trong nhiều, lưỡi nhạt bóng, rêu trắng trơn.

Do chứng âm hư : Bàn tay chân nóng, ho đờm ít mà dính, họng ráo miệng khô, thở khò khè, buồn bực, chất lưỡi đỏ.

2- PHÂN TÍCH BỆNH VÀ CHỨNG

Thí dụ 1: Bệnh nhức đầu kinh niên :

Gọi là bệnh chỉ là một dấu hiệu bệnh, chưa nói rõ được nguyên nhân do tạng phủ nào làm ra, và tình trạng bệnh thuộc khí hay huyết, tình trạng bệnh còn nhẹ ở ngoài biểu hay đã nặng vào trong lý, vi trùng, virus hay mầm bệnh đông y gọi chung là tà khí đã làm cho cơ thể nóng sốt thuộc nhiệt, hay làm cho cơ thể lạnh thuộc hàn. Như vậy dấu hiệu nhức đầu có thể có hàng trăm chứng hay hàng trăm nguyên nhân khác nhau như chứng vị nhiệt, chứng can nhiệt, chứng âm hư dương cang, can dương thượng kháng, can vị thực nhiệt, can tỳ bất hòa..trong hàng trăm chứng đều làm ra bệnh nhức đầu.

Ngoài ra để xác định được một chứng làm ra một bệnh phải có những nơi và bộ vị đều chỉ vào một vị trí nhất định khác nhau trên đầu và kèm theo những dấu hiệu bệnh phụ thuộc khác để biết chi tiết tìm ra có phải đích thực do chứng ấy làm ra không.Thí dụ :

Đau nhức đầu do chứng vị hàn : Phải có chứng đau đầu ở trước trán là nơi bộ vị chỉ về bao tử, cho nên nếu trán lạnh, nhức đầu nơi trán và khám kinh bao tử thấy hư, đông y mới kết luận bệnh nhức đầu này do chứng vị hư hàn .

Bệnh nhức đầu do chứng can dương thượng kháng :  Khi khám và phân tích theo bát cương đông y kết luận là do chứng can dương thượng kháng, thì bộ vị nhức đầu ở đỉnh đầu, các dấu hiệu lâm sàng phụ là mặt đỏ, mũi đỏ, đầu lưỡi đỏ, áp huyết tăng, nước tiểu vàng đậm, táo bón..

Tất cả những dấu hiệu lâm sàng ấy xem như là một bệnh. Đông y không thể nào dùng nhiều huyệt hay dùng nhiều thuốc khác nhau để chữa nhiều bệnh cùng một lúc để chữa ngọn như thế ,mà phải tìm ra nguyên nhân gốc .Nếu đã tìm ra nguyên nhân gốc do chứng nào thì dù bao nhiêu dấu hiệu bệnh cũng chỉ cần một cách chữa là đối chứng trị liệu.

Thí dụ 2 : Bệnh đau bụng :

Đông y xem bệnh đau bụng là hậu qủa của một trong nhiều nguyên nhân khác nhau bao gồm nguyên nhân thời tiết, nguyên nhân do đường kinh, nguyên nhân do ăn uống, nguyên nhân do tâm lý thần kinh.. những nguyên nhân này nói lên tính chất bệnh lý. Do đó chúng ta tìm được nhiều nguyên nhân làm đau bụng như : do vị nhiệt, do hàn tà, do thấp nhiệt, do khí huyết hư, do tỳ vị hư, do thương thực, do giun, do ngoại cảm, do gan, do thận, do đờm, do khí hư, do phế tỳ, do tỳ thận, do huyết hư..Biết được bệnh lý qúa phức tạp như thế mà không biết rõ nguyên nhân gốc do chứng nào thì khó có thể tìm ra cách chữa đúng. Vì thế đông y cần phải biết diễn biến của bệnh lý tức là cái duyên hợp với cái nhân cho ra hậu qủa là đau bụng, như :

1.Cái duyên do thời tiết : tạo ra sự bế tắc khí hóa làm đau bụng nên có loại đau bụng do hàn tà ngưng trệ, có loại do ngoại cảm hàn thấp.

2.Cái duyên do đường kinh của tạng phủ : như hư hàn, thấp nhiệt, hư suy, khí trệ..tạo ra đau bụng do nhiều chứng khác nhau như chứng tỳ vị hư hàn, chứng trường vị thấp nhiệt, chứng can khí phạm tỳ, chứng tỳ dương hư suy, chứng thận dương hư suy, chứng can tỳ khí trệ, chứng phế tỳ khí hư, chứng tỳ thận dương hư..

3.Cái duyên do ăn uống: làm đau bụng có tên gọi là thương thực tích trệ, giun đũa nội nhiễu, thực trệ đàm trở..

4.Cái duyên do khí huyết : làm ra đau bụng như khí trệ huyết hư, huyết hư âm suy, trung khí hư tổn..

Đông y thống kê ra những cái duyên làm ra bệnh do nguyên nhân bên ngoài như phong, hàn, thử, thấp, táo, nhiệt, là do thời tiết. Nguyên nhân bên trong nói lên diễn tiến của bệnh lý như : tắc, trở, trệ, ứ, uất, bế, hạ, hãm, thổ, đàm, thương, kiệt, thắng, kết, độc, trùng, khí, huyết, thăng, giáng, thoát, uẩn, xí, nghịch..

Như vậy, hậu qủa của một bệnh do nhiều nhân-duyên khác nhau nên cách chữa cũng khác nhau phải vừa chữa được cái nhân, vừa chữa được cái duyên hay gọi là tùy duyên đối trị, nói cách khác tìm ra được cái nhân duyên gây bệnh là phải nhờ vào cách phân tích theo bát cương để tìm ra chứng. Rồi tùy duyên đối trị là phải chọn huyệt, chọn thuốc hay chọn cách ăn uống đối nghịch với chứng để lập lại thế quân bình khí hóa gọi là đối chứng trị liệu, như vậy phải thay đổi mỗi lúc mỗi khác nhau cho phù hợp với tình trạng diễn tiến của bệnh ngay lúc khám lâm sàng, nên đông y mới gọi là đối chứng trị liệu lâm sàng , vì vậy đông y không bao giờ cho bệnh nhân uống một loại thuốc nào liên tục trong thời gian dài suốt đời như tây y, như thế sẽ không còn đúng nghĩa đối chứng trị liệu lâm sàng nữa.

Cơ thể thay đổi, biến chuyển mỗi lúc mỗi khác gọi là khí hóa, sự khí hóa lúc nào cũng giữ được quân bình âm dương hòa hợp thì cơ thể khỏe mạnh, nhưng do bất cứ một nguyên nhân nào gây ra bệnh như thời tiết, ăn uống, tâm lý thần kinh, chấn thương.. cũng đều làm xáo trộn khí hóa của kinh mạch tạng phủ, cho nên muốn biết sự trục trặc của kinh mạch tạng phủ nào, phương pháp khám bệnh của khí công cũng phải dựa vào cách khám bằng Quy Kinh Chẩn Pháp, vừa nhanh, dễ, chính xác vừa tiện lợi hơn phương pháp bắt mạch của đông y đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm mới tìm ra được nguyên nhân.

Nhưng PHẦN ĐịNH BỆNH giúp chúng ta tìm ra chứng, chỉ là nguyên nhân do chứng, khi truy tìm nguyên nhân tại sao mà đường kinh hay tạng phủ đó bị chứng như thế thì cần phải suy luận biện chứng, lại là một khó khăn khác khi muốn học khoa đông y. Để giúp cho phần biện chứng có tính khoa học, giản tiện hóa và thấy rõ ngay được nguyên nhân, cho nên phương pháp khí công chữa bệnh đã sáng tạo ra phương pháp vẽ biểu đồ bệnh lý liên quan kinh mẹ-kinh con, vẽ được diễn tiến bệnh tình hư-thực và sinh khắc ngũ hành để giúp cho phần chữa bệnh được nhiều kết qủa.( sẽ xuất bản ở những tập sau ).

 

PHẦN BA:  PHẦN CHỮA BỆNH

Phần thứ ba là phần chữa bệnh bằng phương pháp đối nghịch với chứng gọi là đối chứng trị liệu để tái lập lại sự quân bình khí hóa đã gây ra chứng bệnh ấy.

Khi phân biệt được bệnh ở kinh mẹ, kinh con, mới dùng phương pháp chữa bệnh của đông y theo nguyên tắc con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con, mục đích điều chỉnh lại sự khí hóa cho âm dương hòa hợp thuận ngũ hành. Khi biết phân biệt được tình trạng bệnh theo bát cương, mới có thể áp dụng cách chữa theo bát pháp như : Ôn, trấn, thanh, hòa, xuất, liễm, bổ, tả.

I- TÁM PHƯƠNG PHÁP ĐỐI CHỨNG TRỊ LIỆU

Cơ thể bị bệnh đều phải khám theo tứ chẩn, quy kinh chẩn pháp, xác định bằng huyệt trên lưng và các nguyên huyệt, tả huyệt trên các đường kinh ,để định được bệnh thuộc kinh nào, chứng âm hay dương, về khí hay huyết, bị hư hay thực, cơ thể hàn hay nhiệt, bệnh mới phát còn ở biểu hay đã vào lý, theo tiêu chuẩn Bát cương ( âm, dương, hư, thực, hàn, nhiệt, biểu, lý ), từ đó mới quyết định lập ra một trong tám phương pháp đối chứng trị liệu là Bát Pháp gồm có :

1-Cách sử dụng phương pháp ôn :

Ôn là làm ấm, nóng, sử dụng ngoại dược hay huyệt nội dược để chữa các bệnh đã làm cho cơ thể bị lạnh như phong hàn, thấp hàn, hư hàn, khí hư, hàn đàm hoặc dương hư, không dùng được phép ôn cho âm hư, huyết hư ( vì âm hư sinh nộI nhiệt ), nếu cơ thể mới bị hàn tà xâm phạm thì dùng phép ôn, nếu qúa hàn, phải dùng phép ôn mạnh hơn gọi là phép tăng nhiệt.

Nếu hàn ở thượng tiêu phải làm ấm phổi ( như bệnh ho suyễn hàn ).

Nếu bệnh hàn ở trung tiêu phải ôn trung hay lý trung tiêu làm ấm tỳ vị, như bệnh tỳ vị hư hàn, ăn không tiêu, không chuyển hóa, đông y có bài thuốc lý trung thang (gồm 4 vị là sâm, cương, truật, thảo).

Nếu bệnh ở hạ tiêu bị hư hàn (như đau bụng, tiêu chảy, tiểu nhiều..) phải tăng nhiệt phục hồi dương khí như phép hồi dương cố thoát, đông y có bài thuốc tứ nghịch thang (gồm 3 vị là chích thảo, càn cương, sanh phụ tử ).

2-Cách sử dụng phương pháp trấn :

Trấn là trấn áp, tác động trực tiếp lên hệ thần kinh làm cho không đau nhức gọi là trấn thống thần kinh để giảm đau, hoặc làm cho không sợ hãi gọi là định tâm an thần, đôi khi đau nhức do tuần hoàn khí huyết bị bế tắc chỉ cần giải khai chỗ bế tắc cho thông cũng sẽ hết đau, hoặc hỏa khí hoặc đờm, hay can khí nghịch lên trên cần phải trấn áp không cho lên mà đè xuống cũng gọi là phép trấn.

  3-Cách sử dụng phương pháp thanh

Thanh hoặc lương là làm mát chữa các chứng nóng thuộc ôn nhiệt gồm hai loại nhiệt : thực nhiệt và phiếm nhiệt.

Trị nóng thực nhiệt cần phải tả nhiệt trong trường hợp sốt nóng hừng hực.

Trị nóng phiếm nhiệt là nóng hâm hấp, lan tỏa không dữ dội, không cần phải tả hạ nhiệt nhanh, mà chỉ cần làm mát, cả hai cách đều là thanh, đông y gọi là thanh nhiệt, thanh khí, thanh huyết nhiệt giải độc, lương huyết nhiệt (làm mát máu).

Không được dùng phép thanh trong bệnh hư nhiệt cũng làm sốt nóng, hư cần phải bổ, phải dùng phép ôn bổ, nếu dùng phép thanh là sai lầm sẽ làm bệnh hư thêm .

Nếu bệnh nóng sốt ít thì thanh nhiệt ít, không được tả nhiệt nhiều, nếu không bệnh nhân bị lạnh, trong trường hợp sau khi thanh nhiệt bệnh nhân hết nóng sau đó lại bị nóng trở lại là trong người còn có phong tà chưa ra cần phải đuổi phong ra (gọi là khu phong, trục phong), phải chọn huyệt khu phong thanh nhiệt...

  4-Cách sử dụng phương pháp hòa :

Hòa là hòa giải sự xung khắc lẫn nhau giữa âm dương tương tranh, hàn nhiệt vãng lai, hư thực lẫn lộn, bán biểu bán lý, những trường hợp bệnh ở trung tiêu không thể dùng bổ, cũng không dùng được tả, không dùng được phép xuất, cũng không dùng được phép liễm, lúc đó phải dùng phép hòa giải, bao gồm cả phép khai thông chỗ bế tắc, phép thăng đưa khí lên khi khí bị hạ hãm, và phép giáng khi khí bị thượng nghịch hoặc bị ngăn chặn không xuống được.

   5-Cách sử dụng phương pháp xuất :

Xuất là làm cho ra ngoài bằng đường mồ hôi, đông y gọi là phép hãn.

Xuất cho ra ngoài bằng miệng, làm cho ói mửa thức ăn, đông y gọi là phép thổ.

Xuất cho ra ngoài bằng đường phân, đường tiểu, đông y gọi là phép hạ.

    a- Phép hãn :

Khi tà khí còn ở biểu như trong bệnh sốt nhiệt, ngoại cảm phong, hàn, nhiệt, bệnh thủy thủng, ban chẩn, và bệnh còn ở trên thượng tiêu chưa vào đến trung tiêu.. cần phải đuổi tà khí ra khỏi da lông bằng đường mồ hôi để tà khí không xâm nhập sâu vào cơ thể trong tạng phủ. Phát hãn mạnh trong bệnh ngoại cảm hàn, thấp hàn. Chứng phong, hỏa thử và táo, chỉ phát hãn nhẹ cho da vừa rịn mồ hôi là để đuổi tà khí ra mà không làm mất nước cơ thể, trong bệnh cảm nhiệt, thấp nhiệt.

Điều cấm kỵ không dùng phép hãn khi cơ thể hư nhược, gầy yếu, tân dịch khô khan ,da lông khô, môi họng khô, sốt âm ra mồ hôi trộm, bệnh đã vào đến trung tiêu làm đau bụng quanh rốn như sôi bụng, nếu phát hãn gây ra biến chứng nguy hiểm.

      b- Phép thổ :

Phép thổ là làm cho nôn mửa ra những thức ăn có độc hoặc những thức ăn lâu ngày không tiêu hóa còn giữ lại trong bao tử, hoặc đờm chặn cổ họng không xuống được khiến hay nôn oẹ muốn ói mà không ói ra được, hoặc nó làm khó thở, ngực đầy, uất nghẹn. Khi cơ thể muốn ói là chính khí ở trung tiêu còn mạnh, muốn đẩy tà khí ra không cho xâm nhập sâu vào cơ thể là một phản ứng tự động, cho nên trong cách chữa bằng phép thổ là giúp cơ thể tống tà khí ra không cho tà khí đi xuống sẽ hại đến trung tiêu là trường vị. Đông y thường sử dụng thuốc ngoại dược gây mửa ,có 5 loại gây mửa khác nhau :

-Do bao tử hàn hoặc thức ăn hàn, phải dùng thuốc làm ấm như gừng, quế.
-Do bao tử nhiệt hoặc thức ăn nhiệt, phải dùng thuốc mát như khổ trà, chi tử.
-Do dùng thức ăn để lâu hư thối, có độc, ăn không tiêu, muốn mửa không ra được, phải dùng nước muối hay bột cải.
-Do đờm nhớt chặn họng khó thở, cho mửa bằng nước vỏ quít.
-Do bao tử đầy hơi làm nghẹn thở, cho mửa bằng chỉ thiệt, hậu phác.

Cấm kỵ không được dùng phép thổ đối với người có cơ thể suy nhược, người già, phụ nữ có thai, người bị khí hư, mạch hoãn, băng huyết..

   c- Phép hạ :

Phép hạ là đuổi tà khí ở hạ tiêu ra khỏi cơ thể bằng phân và nước tiểu trong trường hợp trường vị tích trệ, tích nhiệt, tích độc sinh ra sốt, hoặc bón lâu ngày ,hoặc trường vị căng cứng đầy ăn không vào, hoặc kiết lỵ, hoặc mỗi lần đi cầu lỏng ra phân xanh kèm đau vùng bao tử là do tà khí còn tích ở trường vị chưa ra hết. Đông y thường sử dụng bài Thừa khí thang ( Tiểu thừa khí, đại thừa khí, điều vị thừa khí thang).

Cấm kỵ không được dùng phép hạ trong các trường hợp sau :

-Không thuộc bệnh tích trệ trường vị, bệnh nhân muốn ói không được cho xổ, cơ thể yếu thiếu hơi, thiếu khí, mạch vô lực, chứng âm hư tân dịch khô cạn, ăn uống ít, bao tử yếu, nhu động ruột không co bóp đẩy phân ra lầm tưởng là bón (bón giả ),hoặc phân ra nhão ít một thuộc bệnh trường ung ( ung thư ruột). Trong trường hợp bắt buộc phải dùng phép hạ thì bệnh hư sẽ hư thêm, nên phải tả hạ ít hơn, bổ hư nhiều hơn cho chính khí mạnh mới giúp bệnh mau bình phục.

6- Cách sử dụng phương pháp liễm

Liễm hay sáp là cầm giữ làm ngăn lại sự thoát mất tân dịch có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo trường hợp :

Liễm : như chứng đổ mồ hôi không cầm lại được phải liễm mồ hôi, chứng thoát khí phải liễm khí.

Cố : là củng cố, duy trì, gìữ lại, trong phép hồi dương cố thoát ,chứng thoát tinh phải cố tinh bổ thận.

Cầm : chứng băng lậu xuất huyết chảy máu phải cầm máu, chứng đái iả tiêu chảy không ngừng phải cầm tiêu chảy...

Phương pháp liễm tùy theo chứng bệnh để liễm, sáp, cầm, cố, có thể sử dụng huyệt bổ, có thể dùng huyệt tả để đạt được mục đích.

7- Cách sử dụng phương pháp bổ :

Bổ là phương pháp phục hồi hư tổn trong các bệnh thuộc hư chứng để làm cho cơ sở hay chức năng của tạng phủ mạnh lên giúp mau khỏi bệnh . Bổ có nhiều tên gọi tùy mỗi trường hợp khác nhau và bổ ở mỗi người mỗi khác theo nguyên nhân và xét theo hư thực :

Tuấn bổ : phải dùng cách bổ mạnh đối với bệnh hư nhiều.

Tư bổ : áp dụng trong bệnh mới hư nhẹ.

Điều bổ : áp dụng trong trường hợp người vốn hư yếu nay lại bị một bệnh khác như cảm mạo, phải vừa chữa bệnh vừa bổ hư gọi là điều bổ.

Dưỡng âm , tư âm : là bổ hư tổn phần âm.

Lương huyết : vừa bổ vừa làm mát máu gọi là lương huyết.

Hành khí, hoạt huyết : Làm cho khí huyết chạy trơn tru không trở ngại.

Ôn dương, thanh dương : là bổ hư tổn phần dương cho ấm lại hoặc cho mát lại.

Lý khí : Điều chỉnh, chấn chỉnh lại sự khí hóa, cho tạng phủ hoạt động mạnh hơn, tốt hơn.

Bệnh thực không được bổ, nếu không tà khí sẽ mạnh thêm khiến cho bệnh nặng hơn. Ngay cả trường hợp người vốn suy nhược lại mắc bệnh cảm, nếu chỉ bổ thì tà khí mạnh hơn chính khí làm bệnh nặng thêm, trường hợp này phải vừa tả tà khí vừa bổ chính khí.

Nhưng hãy coi chừng bệnh gốc là cực hư tương phản với dấu hiệu lâm sàng lầm tưởng là thực như mạch phù đại, mặt đỏ tối mà váng đầu, cần phải bổ không được tả làm hư thêm hư.

Nếu bệnh thủy hư có dấu hiệu môi miệng da khô không bổ thủy mà bổ hỏa càng làm mất thủy, hoặc ngược lại đáng bổ hỏa hư có dấu hiệu người lạnh, tiểu nhiều nước trong, da phù láng bóng, lại lầm bổ thủy làm thủy dập tắt mất hỏa thêm.

Áp dụng phương pháp bổ phải đúng nhu cầu của tạng phủ, chữa thuốc phải đúng với bệnh mới hết bệnh. Nhiều người sai lầm khi cảm thấy yếu hơi sức, mệt mỏi ăn uống không được nên đã lạm dụng thuốc bổ sâm nhung làm cho tỳ vị vốn đã hư thêm hư sinh no hơi sình bụng, tức ngực, khó thở ,mệt tim, xáo trộn áp huyết. Thực ra nguyên nhân của bệnh là tỳ vị hư hàn.

    8- Cách sử dụng phương pháp tả :

Tả là làm yếu đi, mất đi, đuổi đi, mục đích của cách dùng khác nhau nên có nhiều tên gọi khác nhau như

Tả thực : Khi sự khí hóa của đường kinh, qúa mạnh, hoặc có tà khí lưu trú ở tạng phủ, cần phải sử dụng huyệt tả trong ngũ du huyệt của đường kinh.

Tiết nhiệt : Khi tạng phủ có nhiều tà nhiệt làm hại đến tạng phủ khác, cần phải làm cho mất tà nhiệt của tạng phủ ấy đi thì gọi là tiết, khác với phép hãn là cho xuất mồ hôi ra ngoài cơ thể.( thường tả huyệt vinh hỏa, hoặc bổ huyệt vinh thủy ).

Trục hàn , tán hàn : Khi cơ thể có hàn tà ở thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu làm cho đầu lạnh, tay lạnh, chân lạnh, bụng lạnh..cần phải đuổi hàn tà cho mất đi hoặc cho đi chỗ khác gọi là trục hàn, tán hàn, (thường tả huyệt vinh thủy hoặc bổ huyệt vinh hỏa).

Khu phong ,trục phong : Khi cơ thể bị phong tà do môi trường, thời tiết lục dâm làm co rút gân cơ, bế tắc kinh mạch khiến sưng đau tê nhức, cần phải đuổi phong tà đi để cho kinh mạch được thông , gọi là khu phong ,trục phong.

Khử thấp : Khi cơ thể có thấp tà cần phải đuổi thấp bằng cách cho rịn mồ hôi chứ không phải cho xuất hãn gọi là khu, khứ, hoặc khử thấp.

Hóa tích, hóa ứ, hóa đờm : Khi cơ thể có một chỗ nào đó bị tắc nghẽn do huyết tụ, hoặc đờm tụ làm trở ngại sự tuần hoàn của kinh mạch, cần phải làm cho nó tan biến đi ra chỗ khác hoặc cho biến mất đi, gọi là hóa.

Tiêu trệ : Sử dụng phép tiêu làm cho tiêu mòn dần những vật tích tụ như khi tiêu hóa kém thức ăn còn chưa hấp thụ và chuyển hóa làm trở ngại sự khí hóa, hoặc biến thành đờm, hoặc tích khí, tích huyết thành khối như bệnh trưng hà ( một loại bướu tử cung), sán khí (một loại bướu đường ruột ), loa lịch (một loại bướu cổ ) gây khó thở, mệt, nặng bụng , căng tức, đầy hơi, ngăn nghẹn không được thông, cần phải làm cho mất tình trạng ấy đi gọi là tiêu. Bệnh có thực có hư, thực thì tả, hư thì bổ.

Những bệnh khí hư, tỳ suy ăn không tiêu, hoặc huyết hư làm cho thịt da chai sần sùi không được dùng phép tiêu, vì là bệnh thuộc hư cần phải bổ.

Giải biểu hàn, biểu nhiệt : Trong trường hợp bị ngoại cảm, phải đuổi hàn tà, nhiệt tà ra khỏi cơ thể không cho xâm nhập lấn sâu vào phần lý gọi là giải biểu.

II- THẾ NÀO LÀ ĐỐI CHỨNG TRỊ LIỆU

Khi đối chứng để trị cũng có nhiều cách để chọn thuốc, chọn huyệt hay ăn uống thích hợp như :

  • phong thì sơ phong, hoặc giải biểu, hoặc khử phong.
  • hàn thì tán hàn, ôn trung( làm ấm bên trong) Có thử thì thanh thử, lợi thấp.
  • thấp thì trục thấp.
  • táo thì nhuận táo.
  • nhiệt thì thanh nhiệt ( làm mát ) hoặc tiết nhiệt ( cho xuất mồ hôi).
  • Âm suy thì bổ âm, ích âm, dưỡng âm, kiện âm.
  • Dương dồn lên đầu hay dương thượng kháng phải tiềm dương, giữ dương.
  • phải bổ, có thực phải tả.
  • nhiệt kết phải thanh nhiệt tả hạ.
  • Bệnh ở biểu cho xuất.
  • Bệnh ở phải cho hòa, lý hư cho bổ trung, lý hãm cho thăng, lý tắc cho thông, lý yếu cho mạnh (kiện).
  • Trở phải cho hòa hoãn, điều hòa.
  • Trệ, tích, ứ , phải làm cho tiêu đi, cho thông, cho thư giãn.
  • Bế phải thông hạ cho thoát ra.
  • Hạ thì phải cầm giữ lại.
  • Hãm phải làm cho thoát cho thông.
  • Thổ ( oí mửa ) phải hòa khí.
  • đàm phải cho hóa, tiêu hoặc thông đàm.
  • thương (bị đau do thương tích ) phải lý khí chỉ thống ( cầm đau, giảm đau).
  • kiệt cạn phải bổ sung.
  • thống phải chỉ thống (đau phải giảm đau an thần).
  • kết phải giải kết tả hạ.
  • độc phải giải độc.
  • Có trùng phải sơ tiết khí cơ.
  • khí trệ phải thông khí.
  • huyết hư bầm phải hoạt huyết khử ứ.
  • Trọc khí thăng, hỏa nghịch, huyết thăng ( như sung huyết não, máu cam) phải cho giáng.
  • Khí huyết giáng phải cho thăng lên.
  • Thoát âm, dương, dịch chất, khí, huyết, phải cho thu liễm, cầm, cố.
  • Uẩn nhiệt tà phải cho xuất, tiết nhiệt.
  • Xí, phạm, phải cho hoạt, thông đi chỗ khác.

III-  ĐỐI CHỨNG TRỊ LIỆU LÂM SÀNG NHƯ THẾ NÀO?

Người chữa bệnh bằng huyệt gọi là nội dược ( médicaments internes hay points médicaments ) giống như một dược sĩ pha chế thuốc phải biết tác dụng của dược lý ( fonction énergetiques ) và hiểu rõ mục đích ,công dụng lợi hại của 10 loại chữa trị khác nhau để quyết định chọn ra một cách hoặc nhiều cách phù hợp theo tiêu chuẩn đối chứng trị liệu như :

1-Tác dụng tuyên ( dénoboturatéin ): để khơi chỗ bế tắc.

2-Tác dụng thông (diosolvant-antistase ): để thông trệ.

3-Tác dụng bổ ( tonic-antivide ): để củng cố bồi bổ cho mạnh.

4-Tác dụng tiết ( dilateur et secréteur ):để mở sự đóng chặt cho thoát ra.

5-Tác dụng khinh ( éliminateur de l’énergie perverse ) để trừ thực tà.

6-Tác dụng trọng ( anxrolytique ) : để an thần, trấn áp thần kinh.

7-Tác dụng hoạt ( activateur ) : để làm thông tiêu ứ đọng.

8-Tác dụng táo ( contre l’humidité ) : để làm khô, trừ thấp.

9-Tác dụng thấp ( contre la secheresse ) : để nhuận táo.

10-Tác dụng sáp ( anti-échappant ) : để cẩm giữ lại cho khỏi thoát ra mất.

IV-  ĐỊNH HƯỚNG TRỊ LIỆU

Sau khi phân tích bệnh theo bát cương, tìm nhân và duyên làm ra bệnh, mới có thể tùy duyên để đối duyên và định ra được hướng trị liệu phù hợp :

Thí dụ :

1-Chứng hàn tà ngưng trệ : hướng trị liệu là ôn trung tán hàn, tán hàn lý khí, chỉ thống. ( tức là làm ấm bên trong, đuổi lạnh, bổ khí, giảm đau ).

2-Chứng dương minh kết nhiệt hay chứng trường vị kết nhiệt : Hướng trị liệu là thanh nhiệt tả hạ ( làm mát, tống nhiệt theo ra đường tiêu tiểu ).

3-Thấp nhiệt nội trở : Khí nóng ẩm thấp làm đình trệ, trở ngại khí hoá bên trong. Hướng trị liệu là thanh nhiệt lợi thấp.

4-Khí trệ huyết hư : Khí không thông làm huyết bị ứ đọng hư, khô, bầm.. Hướng trị liệu là thư can, lý khí, hoạt huyết, khử ứ.

5-Tỳ vị hư hàn : Hướng trị liệu là bổ trung ích khí, ôn dương tán hàn.

6-Thương thực tích trệ : Do ăn uống không tiêu tích lũy bên trong làm tổn thương tạng phủ. Hướng trị liệu là Tiêu tích đạo trệ, lý khí chỉ thống, kiện tỳ hòa vị.

7-Trường vị thực nhiệt : Hướng trị liệu thanh nhiệt thông phủ.

8-Ngoại cảm hàn thấp : Hướng trị liệu ôn trung tán hàn trừ thấp.

9-Thấp nhiệt hạ bách : Thanh nhiệt, lợi thấp, thông phủ.

10-Can khí phạm tỳ : Hướng trị liệu sơ can , kiện tỳ.

11-Tỳ dương hư suy : Hướng trị liệu Ôn dương, kiện tỳ, lợi thấp.

12-Thận dương hư suy : Hướng trị liệu Ôn bổ thận dương

13-Thực trệ đàm trở : Hướng trị liệu Đạo trệ, thông phủ, hóa đàm.

14-Trung khí hư tổn : Hướng trị liệu Bổ trung ích khí, hoạt huyết hóa ứ.

15-Can tỳ khí trệ : Hướng trị liệu Giáng khí thông trệ.

16-Phế tỳ khí hư : Hướng trị liệu Bổ trung ích khí.

17-Tỳ thận dương hư : Hướng trị liệu Ôn bổ tỳ thận.

18-Huyết hư âm khuy : Hướng trị liệu Ích âm sinh tân.

19-Giun trùng nội nhiễu : Hướng trị liệu Sơ tiết khí cơ, an hồi chỉ thống.

V-   CÁCH PHỐI HỢP HUYỆT :

Qua thí dụ trên, chúng ta thấy mỗi hướng trị liệu là một cách phối hợp huyệt khác nhau thành tiêu chuẩn hóa như một công thức tương đương với các loại thuốc ngoại dược bào chế sẵn, đã có công hiệu được nhìn nhận có kết qủa qua nhiều đời. Một dược sĩ giỏi khi nếm thử một loạt thuốc không độc, có thể biết trong thuốc gồm có những chất gì, và công dụng dùng để chữa bệnh gì. Nhưng đối với người chữa bằng huyệt chỉ biết thành phần huyệt, nhưng chưa thể biết nó chữa được bệnh gì, vì nó chưa thành một công thức phối hợp huyệt.

Thí dụ có người hỏi 3 huyệt Túc tam lý, Tâm du, Cách du chữa bệnh gì ?

Ba huyệt này chỉ nói lên được hai đường kinh, có hai huyệt trên kinh Bàng quang là Tâm du, Cách du, và một huyệt Túc tam lý trên kinh Vị .Nó chưa phải là một công thức. Công thức huyệt đòi hỏi rõ ràng có đầy đủ yếu tố, huyệt nào bổ, huyệt nào tả, huyệt nào sử dung trước, huyệt nào sử dụng sau theo thứ tự ưu tiên quân thần tá sứ. Cho nên cũng ba huyệt này sẽ có các công thức khác nhau để chữa những bệnh khác nhau :

Ký hiệu x là tả, ký hiệu o là bổ, chúng ta có các công thức sau đây :

x Túc tam lý, x Tâm du, x Cách du = Chữa chứng tâm huyết nhiệt ứ trở.

o Túc tam lý, o Tâm du, o Cách du = Chữa chứng huyết hư phải liễm âm ích khí

x Cách du, x Tâm du, x Túc tam lý = Chữa chứng can phạm vị, can vị bất hòa.

x Tâm du, x Cách du, x Túc tam lý = Chữa chứng can vị nhiệt xung tâm .

o Tâm du, o Cách du, o Túc tam lý = Chữa chứng hàn đàm do vị hư.

x Cách du, o Tâm du, o Túc tam lý = Chữa chứng tâm vị ngăn cách.

Với 3 huyệt tráo đổi thứ tự chúng ta có 9 cách, mỗi cách bổ tả khác nhau như 9 cách đều bổ, 9 cách đều tả, 9 cách hai bổ một tả, 9 cách hai tả một bổ, chúng ta sẽ có 36 công thức chữa bệnh khác nhau.

VI-  PHỐI HỢP HUYỆT TRÊN LÂM SÀNG

Khi chúng ta có một công thức phối hợp huyệt, chúng ta phải xét đến tác dụng của công thức ra sao.

Thí dụ : Chúng ta có công thức chữa bệnh đau bụng tiêu chảy như :

x Thiên xu, x Thượng cự hư, x Khúc trì

Chúng ta tự đặt câu hỏi, tại sao phải chọn những huyệt này rồi lý luận xem có hợp lý hay không.

Huyệt Thiên xuThượng cự hư thuộc kinh Vị, có liên quan đến đại trường ( thổ dương sinh kim dương ). Khúc trì cũng là huyệt của kinh đại trường thuộc kim dương. Thổ thuộc thấp khí, nếu thấp hàn phải ôn bổ, nhưng hai huyệt này dùng phép tả là bị thấp nhiệt. Khúc trì là huyệt bổ của Kinh đại trường, nếu bổ Khúc trì sẽ làm cho nó bị nhiệt thêm do đó phải tả. Tại sao không tả huyệt Nhị gian là huyệt tả của kinh đại trường, nếu tả nó sẽ làm cho chức năng khí hóa của Đại trường yếu đi. Ở công thức này, người chọn huyệt để chữa không muốn làm yếu chức năng khí hoá của đại trường mà chỉ muốn thông đại trường để lợi thấp, bớt nhiệt. Cho nên công thức này dùng để thanh nhiệt lợi thấp thông phủ chữa bệnh đau bụng để đối trị với chứng có tên là Thấp nhiệt hạ bách, tức là cái nóng của bao tử tạo ra nhiều thấp nhiệt bức bách ở dưới bụng làm hại chức năng của đường ruột không thông.

Xét theo tinh-khí-thần ,công thức này chữa bệnh đau bụng do ăn thức ăn cay nóng, chiên xào làm bao tử phát nhiệt, không phải do nhiệt của tâm hỏa đưa xuống, vì nếu do tâm hỏa thực, phải tả kinh con là kinh vị, huyệt tả kinh vị là Lệ đoài.

Khi khám bệnh nhân trên lâm sàng bằng Quy Kinh Chẩn Pháp thì ngón tay thứ hai thuộc đại trường phải thực, bấm bẻ đầu ngón tay cứng đau. Ngón chân thứ hai thuộc kinh vị thực ,day vào đầu ngón chân ấy đau nhiều.

Nếu khám bằng huyệt thì huyệt Nhị gian ở đầu lóng xương thứ ba ngón trỏ bấm vào thấy đau nhiều. Vị thực thì bấm vào huyệt Lệ đoài ở góc móng ngón chân thứ hai đau. Khám trên lưng có huyệt Vị du bấm cảm thấy đau.

Nếu sờ vào vùng da bụng quanh rốn và bao tử cảm thấy nóng nhiều hơn vùng khác, nếu ấn đè mạnh bệnh nhân cảm thấy đau .

Nếu bệnh nhân bị đau bụng tiêu chảy mà có đủ các yếu tố theo Quy Kinh Chẩn Pháp như trên thì không phải tiêu chảy hàn, mà tiêu chảy nhiệt, phân lỏng nát, thối khắm, nóng rát hậu môn.

Như vậy bệnh đau bụng do chứng Thấp nhiệt hạ bách thì công thức đối chứng trị liệu đúng phải là Thanh nhiệt, lợI thấp, thông phủ .Và ba huyệt trên tạo thành một công thức giống như một loại thuốc bào chế sẵn rất phù hợp. Nếu công thức không đúng với bệnh lý trên lâm sàng thì không còn dùng được nữa, chẳng hạn như chưa dùng công thức mà bệnh nhân đã đi tiêu chảy nhiệt thì không cần thông mà chỉ cần thanh nhiệt lợi thấp cho nên phải khám lại, bây giờ bệnh do chứng gì làm ra, lý luận lại, công thức phải đổi khác cho phù hợp với đối chứng trị liệu.

VII-   ÁP DỤNG QUÂN THẦN TÁ SỨ TRONG TRỊ LIỆU 

Quân như một ông vua, một tổng thống, Thần như vị thủ tướng, phó thủ tướng, như các vị bộ trưởng và thứ trưởng, Sứ như các vị đại sứ liên lạc với nước ngoài.

Đối với cách dùng thuốc đông y, tùy theo mục đích, sẽ chọn lựa một trong mười phương pháp như Tuyên, Thông, Bổ, Tiết, Khinh, Trọng, Hoạt, Táo, Thấp, Sáp. Thầy thuốc phải chọn vị thuốc nào chính yếu với liều lượng mạnh và nhiều hơn các vị khác để làm quân, vị thuốc nào có thể phối hợp với nó để làm tăng sức mạnh thêm cho quân thì gọi là thần ,liều lượng ít hơn .Vị thuốc nào có tính chất gia giảm, ngăn chặn, đề phòng biến chứng và có thể dung hòa sự khắc nghịch tương phản của thuốc dùng để phò tá cho các vị thuốc hoạt động hữu hiệu gọi là ,chọn vị thuốc nào dẫn đường đem toàn bộ sức mạnh của thuốc đến kinh mạch tạng phủ nào mình muốn chữa gọi là sứ.

Về dược liệu đông y, sau khi sắc một thang thuốc, người am hiểu quy luật trên chỉ cần nếm thuốc sẽ biết được vị thuốc nào là quân, thần, tá, sứ, biết được cả thuốc chữa theo phương pháp nào trong mười phương pháp, mùi vị của thuốc dùng để chữa tạng phủ nào, và mục đích chữa của thuốc là gì. Sở dĩ chọn các vị thuốc để có được bài thuốc chữa đúng bệnh này là dựa vào cách đối chứng trị liệu lâm sàng ,mà đối chứng trị liệu phải tìm ra được bệnh do định bệnh thuộc chứng nào, là nhờ ở phương pháp phân tích bệnh theo Bát Cương. Từ đó, khi nếm thuốc biết được thành phần thuốc chữa bệnh của người thầy cho toa thuốc là đúng, tay nghề cao hay tay nghề là dở, kém chưa có kinh nghiệm.

VIII-  PHỐI HỢP HUYỆT GIA GIẢM       

Phối hợp huyệt trên lâm sàng là đối chứng trị liệu, tùy vào bệnh lý khác nhau khi khám theo Quy Kinh Chẩn Pháp, rồi tùy vào hư thực của tổng thể, của tình trạng sức khỏe của mỗi người mỗi khác, tuy cùng một chứng giống nhau, nhưng cần phải thêm hoặc bớt liều lượng của thuốc gọi là gia giảm theo quân, thần, tá, sứ, để thành bài thuốc phù hợp hoàn chỉnh cho riêng từng người trong trường hợp dùng dược liệu.

Thí dụ công thức căn bản gồm bốn chất A (50%)+B ( 30%)+ C (15%)+D ( 5%), như vậy liều lượng A làm quân, B làm thần, C làm tá, D làm sứ. Nếu công thức thay đổi khác mà vẫn giữ 4 chất chính nhưng tỷ lệ khác A( 45%)+B (25% )+ C (15%)+ D ( 5% )+E (10%) có nghĩa là công thức đã gia thêm chất E làm tá , giảm liều của quân A và thần B.

Cách dùng ngoại dược thì thay đổI tỷ lệ liều lượng rồi bỏ chung vào nấu thành một hợp chất khác với hợp chất của nội dược bằng huyệt phải tuân theo quy luật sau:

Thứ tự ưu tiên huyệt nào sử dụng trước, huyệt nào sử dụng sau, giống như số mật mã, nếu sai thứ tự sẽ thành số khác để chữa bệnh khác, cho nên việc gia giảm trong công thức huyệt, thì gia có thể là thêm huyệt, có thể không thêm huyệt mà tăng thời lượng kích thích huyệt đó lâu hơn, còn giảm thì không phải bớt huyệt trong công thức căn bản mà giảm thời lượng kích thích huyệt đó nhanh hơn.

Thí dụ áp dụng toa thuốc chữa đau bụng tiêu chảy nhiệt vào ba loại bệnh nhân có thể trạng khác nhau, sẽ phải thêm vào một số huyệt khác nhau :

Công thức căn bản :

x Thiên xu, x Thượng cự hư, x Khúc trì

Ba huyệt đều là tả để tiết nhiệt, tả huyệt Thiên xu là thần, tả huyệt Thượng cự hư là chính với mục đích để thông phủ dùng làm quân, thời gian kích thích huyệt lâu hơn các huyệt khác, huyệt làm sứ là sẽ dẫn thuốc đi đâu, nên trong công thức này là tả huyệt Khúc trì làm sứ dẫn nhiệt thông xuống đại trường.

1-Loại bệnh nhân có sứ khỏe đầy đủ, không có bệnh khác đi kèm :

Đau bụng nhiệt do chỉ ăn những thứ nóng tạo nhiệt như mít, nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng, ưa ăn chất cay nóng mà làm ra bệnh đầy bụng và đau bụng là do khí lực dư thuộc thực chứng không chuyển hóa. Công thức gia giảm như sau :

x Khúc trì, x Thiên xu, x Ủy dương, x Thượng cự hư

Lý luận biện chứng :

Tả Khúc trì làm sứ dẫn khí đaị trường đi xuống . Tả Thiên xu làm thần giúp chuyển hóa tiêu tích thực, giảm đau tức bụng ,tả Ủy dương làm tá thông hạ tiêu giải tỏa bớt nhiệt ở trường vị và tả lâu huyệt Thượng cự hư làm quân để tiết nhiệt thông phủ tống phân ra ngoài.

2-Loại bệnh nhân đang có bệnh Cao áp huyết thực chứng:

Đầu nóng chân lạnh, (khác với bệnh cao áp huyết do hư chứng, đầu mát, người không nóng, thường là bệnh mãn tính do dùng thuốc lâu dài ).Bệnh nhân vừa bị thực chứng của bệnh cao áp huyết vừa bị đau bụng nhiệt cũng là thực chứng, thực làm thêm thực khiến áp huyết sẽ tăng cao cần phải gia giảm như sau :

x Lệ đoài x Đại lăng, x Trung Quản,

x Thiên xu, x Ủy dương, x Khúc trì, x Thượng cự hư.

Lý luận biện chứng :

Mục đích áp dụng bài thuốc này là tiết hỏa, thông phủ. Hỏa thực truyền cho con là Vị thực, tả con làm mẹ yếu đi nên Lệ đoài và Đại lăng làm thần mở đường cho quân đánh thẳng vào bao tử thông xuống đại trường. Tả Lệ đoài cuối kinh Vị, góc móng chân thứ hai phía ngoài để làm mất nhiệt bao tử, vừa là tả con của Kinh Tâm bào khiến cho áp huyết không tăng được ,cắt hỏa kinh Tâm bào là Đại lăng ở giữa cổ tay trái để giảm áp huyết xuống

Dùng Trung Quản, Thiên xu và Ủy dương làm tá. Tả Trung Quản ở đoạn giữa giao điểm hai xương sườn nơi ức xuống rốn, để tả bớt nhiệt trung tiêu, tả Thiên xu để chuyển hóa tích trệ trường vị, day bấm Ủy trung để thông hạ tam tiêu.

Tả huyệt Khúc trì ở cùi chỏ nơi đầu lằn chỉ mặt ngoài khuỷu tay để làm sứ dẫn thuốc xuống thông hạ đại trường .

Tả Thượng cự hư lâu hơn các huyệt khác để làm quân, tả tiết nhiệt và thực tích ra ngoài, bệnh nhân sẽ cảm thấy khí huyết xuống chân nhiều hơn và bụng bớt đau nóng .

3-Loại bệnh nhân gầy yếu hư nhược nay lại bị chứng trường vị thấp nhiệt :

Bệnh bây giờ thuộc thực trong hư, bệnh đang đau cần tả trước cho mất thực mới bổ hư sau.

Áp dụng công thức tả trường vị thực nhiệt trước gồm ba huyệt căn bản Thiên xu, Thượng Cự hư. Khúc trì. Sau dùng 6 huyệt bổ của khí công :

x Thượng cự hư, xThiên xu, x Khúc trì

o Chiên trung, o Trung Quản, o Khí Hải, o Mệnh môn,

o Thận du.

Lý luận biện chứng :

Tả thời gian lâu hơn các huyệt khác ở Thượng cự hư làm quân cho bớt nhiệt hạ khí giảm đau. Tả Thiên xu làm thần. Khúc trì làm sứ và 6 huyệt bổ khí công làm tá để tăng cường sự khí hóa âm dương.

Nếu thiếu kinh nghiệm phân tích đựợc sự tác dụng của công thức huyệt có sẵn để áp dụng vào đối chứng trị liệu lâm sàng thì chứng và đối chứng không phù hợp sẽ không có kết qủa để tái lập lại sự quân bình khí hóa của tổng thể được lâu dài, chỉ là chữa ngọn, hoặc làm cho bệnh trở nặng nguy hiểm thêm.

IX- YẾU TÓ HẬU-BẠC TRONG TRỊ LIỆU :

Thuốc đông y khi sắc thuốc xong rồi nếm thử mùi vị sẽ có một trong năm vị nổi bật nhất đó là vị quân, là chất chính dùng để chữa bệnh trong thang thuốc, như vị đắng thuộc hỏa chữa tâm- tiểu trường, vị ngọt thuộc thổ chữa tỳ- Vị, vị cay thuộc kim chữa phế-đại trường, vị mặn thuộc thủy chữa thận-bàng quang, vị chua thuộc mộc chữa gan-mật. Nhưng nếu vị trong toàn thể chén thuốc nó nhạt, mùi phảng phất là loại thuốc nhẹ chữa những bệnh còn ở ngoài kinh mạch thuộc biểu chứng gọi là vị BẠC , ngược lại mùi vị thuốc nồng nặc, đậm đặc là loại thuốc mạnh chữa những bệnh đã xâm nhập vào lý hay vào tạng phủ, cần phải có thuốc mạnh hơn, để duy trì việc điều trị gọi là vị HẬU.

Đối với cách sử dụng khí công, hậu hay bạc do cách sử dụng huyệt chữa đã được chọn huyệt nào làm quân, huyệt nào làm thần, huyệt nào làm tá, sứ để quy định thời gian kích thích huyệt lâu hay mau, trong trường hợp truyền khí thì huyệt nào truyền nhiều, huyệt nào truyền ít. Nếu áp dụng hơ cứu huyệt cũng theo thời gian lâu mau ở mỗi huyệt mỗi khác. Khi huyệt đã nhận đủ liều lượng nó cần phải có tín hiệu giao cảm biết nóng, đau, rồi có phản xạ dẫn truyền ở bên hơ hay bấm huyệt, rồi có phản xạ dẫn truyền bên đối nghịch là thời gian cơ thể đang tiết ra thuốc nội dược để tự chữa bệnh, khi có phản xạ chống đối như co giựt, tránh né, từ chối, thì ngưng không nên tiếp tục sẽ có phản ứng xấu.

Có những trường phái chữa bệnh bằng dán cao nóng trên huyệt thay vì hơ hoặc bấm, kết qủa sẽ kém hoặc không kết qủa gì mặc dù công thức phối hợp huyệt đối chứng trị liệu đúng với chứng đã được định bệnh bằng cách phân tích bệnh theo bát cương. Tại sao lại không có kết qủa ?

Vì dán cao đều khắp thì tính chất vị thuốc là BẠC là loại thuốc nhẹ không đủ để chữa bệnh thuộc lý, dán cao trên các huyệt giống nhau không phân biệt thứ tự trước sau huyệt nào là quân, huyệt nào là thần, huyệt nào là tá, sứ, huyệt nào bổ, huyệt nào tả, cho nên công thức đúng mà cách kích thích huyệt không đúng cũng không chữa được bệnh có kết qủa như ý muốn.

Tóm lại, một căn bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau sẽ có những chứng khác nhau như bệnh đau bụng, bệnh nhức đầu là hai loại bệnh thông thường hay gặp có mấy chục nguyên nhân khác nhau dĩ nhiên sẽ do nhiều chứng khác nhau, cho nên việc định bệnh đúng cần phải biết phân tích bệnh theo bát cương, đối chiếu với cách khám bệnh vọng ,văn, vấn, thiết, tìm dấu hiệu lâm sàng tương ứng với tạng phủ bệnh để hiểu bệnh đó do chứng nào làm ra, rồi sau đó do kinh nghiệm tài năng của thầy thuốc mới quyết định công thức đối chứng trị liệu theo cách nào trong những cách chữa của đông y. Cho nên đông y không thể nào có một công thức tiêu chuẩn chữa một căn bệnh giống nhau cho tất cả mọi người, như vậy còn gì là cái tinh hoa của đông y về cách khám bệnh theo tứ chẩn, định bệnh theo bát cươngphối hợp huyệt trong đối chứng trị liệu lâm sàng cho từng bệnh nhân nữa.